Bàn về VĂN HOÁ CÔNG SỞ với tâm lí làm quen trong THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1. Đặt vấn đề

     Đổi mới nội dung và phương thức quản lí nhà nước về văn hoá công sở, xây dựng cơ chế, chính sách, chế tài ổn định, phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu mới của sự phát triển văn hoá thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế; Tích cực mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hoá, từng bước xây dựng nước ta thành địa chỉ giao lưu văn hoá có sức hấp dẫn của khu vực và thế giới, đồng thời chống lại sự xâm nhập của các luồng văn hoá độc hại, tiêu cực xa lạ với thuần phong mĩ tục của dân tộc Việt Nam; Huy động mọi nguồn lực xã hội cho sự phát triển văn hoá, xã hội hoá các hoạt động văn hoá; Phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các hội sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, các hộ gia đình, cá nhân, các trí thức tham gia hoạt động trên lĩnh vực văn hoá, thẩm mĩ, nâng cao chất lượng giáo dục khoa học nhân văn, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.

     Văn hoá công sở hơn bao giờ hết cần được xây dựng chuẩn mực, phát huy và thực thi nghiêm túc trong các cơ quan, đơn vị và coi đó là một trong những yếu tố xây dựng bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập.

2. Khái niệm văn hoá công sở

     Trong mỗi một quốc gia dân tộc, văn hoá công sở là một bộ phận của văn hoá của dân tộc đó. Văn hoá công sở Việt Nam là một bộ phận của văn hoá Việt Nam. Những yếu tố tác động làm thay đổi các mặt đời sống văn hoá dân tộc Việt Nam cũng sẽ là những yếu tố làm thay đổi văn hoá công sở.

     Mỗi một công sở là một xã hội thu nhỏ, một tiểu hệ thống nằm trong một hệ thống lớn, có lịch sử thành lập và phát triển, có các mối quan hệ bên trong nội bộ, quan hệ với các công sở trong cùng một hệ thống và quan hệ với xã hội (với các cá nhân và tổ chức)… Trong điều kiện đó, văn hoá của mỗi công sở được hình thành và phát triển, được phát huy, góp phần quyết định vào việc thực hiện vai trò, chức năng, thẩm quyền của mỗi cơ quan nhà nước. Trong đời sống văn hoá của mỗi công sở, ngoài các yếu tố, thành phần văn hoá công sở nói chung, có phần văn hoá làm nên bản sắc riêng của nó, phân biệt nó về văn hoá với các công sở khác.

     Theo nghĩa rộng nhất, có thể hiểu văn hoá công sở là toàn bộ các hoạt động sáng tạo và các giá trị vật chất và tinh thần được hình thành, duy trì, kế thừa và phát huy trong quá trình tổ chức và hoạt động của các công sở. Theo đó, văn hoá công sở hành chính bao gồm tổng thể các đặc trưng về tư tưởng, lối sống, đạo đức, tác phong, tri thức, xúc cảm, phương thức ứng xử trong các quan hệ của đội ngũ cán bộ, công chức khi công sở thực hiện vai trò, chức năng, thẩm quyền của nó. Văn hoá công sở còn bao gồm hệ thống các giá trị, chuẩn mực, truyền thống, niềm tin.

     Tiếp cận văn hoá công sở theo nghĩa rộng trên đây cho phép làm rõ đầy đủ mục tiêu, ý nghĩa sâu xa của công cuộc cải cách hành chính và vai trò của văn hoá công sở đối với cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính. Cải cách hành chính, đổi mới vai trò, chức năng của bộ máy hành chính nhà nước phải hướng tới mục tiêu văn hoá, xây dựng một đời sống văn hoá công sở mới, thấm nhuần truyền thống văn hoá dân tộc, đậm đà tính nhân văn, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá công sở của các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Văn hoá công sở là kết quả của cải cách hành chính, đồng thời là động lực của quá trình cải cách này. Văn hoá công sở phải trở thành động lực của cải cách hành chính, của đổi mới phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức trong các quan hệ, đặc biệt là quan hệ với nhân dân và doanh nghiệp.

     Theo quan niệm trên đây, văn hoá công sở nghiêng về khía cạnh văn hoá ứng xử của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ của một công sở. Đó là tổng hợp các giá trị, chuẩn mực, quan điểm, quan niệm định hướng cho việc giải quyết các vấn đề nội bộ công sở và xử lí các vấn đề với môi trường xung quanh công sở. Quan hệ ứng xử của cán bộ, công chức trong hoạt động của công sở hình thành nên môi trường làm việc tốt trong các cơ quan hành chính nhà nước, bao gồm:

     – Ứng xử đối với công vụ được giao, bao gồm quan điểm, thái độ, kĩ năng xử lí đối với nhiệm vụ được phân công; tính chủ động, sáng tạo, tính trách nhiệm đối với công vụ;

     – Ứng xử trong quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới; giữa lãnh đạo với cán bộ, công chức. Những yêu cầu về xưng hô trong công sở, khi gọi điện thoại, đến việc đánh giá, khen thưởng công bằng, v.v.;

     – Ứng xử với đồng nghiệp trong quan hệ tôn trọng, đoàn kết, hợp tác, tin cậy; đề cao và tôn trọng tập thể;

     – Ứng xử trong tiếp xúc giải quyết công việc của nhân dân, doanh nghiệp, tổ chức, bao gồm các yêu cầu về tính chuyên nghiệp, tác phong, lề lối, tinh thần, thái độ trong tiếp xúc, xử lí, giải quyết công việc của công dân và tổ chức;

     – Ứng xử với môi trường, với đồ vật trong công sở như các yêu cầu chuẩn mực về trang trí, kê đặt trang thiết bị, phương tiện làm việc, treo tranh ảnh, đặt tượng đài, đến bố trí phòng làm việc, nơi tiếp đón, lễ tân; các yêu cầu về bảo đảm vệ sinh môi trường, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ tài sản công, v.v.;

     – Ứng xử với chính mình (tự ứng xử) bao gồm các yêu cầu trang phục, trang điểm, đầu tóc, giày dép, đi đứng.

     Quan niệm theo nghĩa hẹp về văn hoá công sở trên đây rất gần gũi với quan niệm về văn hoá công ti, văn hoá doanh nghiệp (trong đó nhấn mạnh về mối quan hệ ứng xử trong công ti). Cách tiếp cập này cho phép nhìn nhận cụ thể hơn những vấn đề về văn hoá công sở, từ đó có thể nghiên cứu, làm rõ các giải pháp cụ thể, trực tiếp thúc đẩy hình thành và nâng cao trình độ văn hoá công sở.

     Như vậy có thể hiểu: Văn hoá công sở là hệ thống các giá trị, niềm tin, chuẩn mực được hình thành, duy trì và phát triển trong công sở, tạo nên một dấu ấn riêng biệt. Nó tác động mạnh đến hoạt động của toàn bộ thành viên trong công sở và là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của công sở.

3. Những nội dung cơ bản cấu thành văn hoá công sở

     Văn hoá chính trị

     Văn hoá chính trị là khái niệm có nội hàm rộng lớn, chỉ xuất hiện từ khi quan niệm văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng. Chính trị và văn hoá gắn bó một cách hữu cơ. Chính trị chi phối văn hoá và văn hoá nằm trong chính trị. Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Văn hoá có liên lạc với chính trị rất mật thiết”.

     Văn hoá đạo đức

     Văn hoá đạo đức có vị thế quan trọng trong đời sống của con người. Trong đời sống văn hoá nơi công sở, văn hoá đạo đức là một trong những hệ chuẩn mực phổ quát nhất. Nó tạo nên những điều kiện tối đa cho cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ và trong các quan hệ giao tiếp xã hội. Nền văn hoá của mỗi dân tộc đều có các chuẩn mực, hệ thống giá trị được hình thành trong quá trình lịch sử của dân tộc.

     Văn hoá trang phục

     Trang phục là biểu hiện bên ngoài của bản sắc văn hoá dân tộc, là thành tố quan trọng của văn hoá tộc người. Trang phục biểu hiện thẩm mĩ, thuần phong mĩ tục và phong cách sống của dân tộc. Nền văn hoá của các quốc gia, dân tộc có bản sắc riêng tạo nên tính đặc thù, độc đáo của mỗi nền văn hoá, trong đó văn hoá trang phục là yếu tố dễ nhận biết.

     Trang phục không chỉ là nhu cầu thiết yếu của con người, là vấn đề kinh tế – xã hội mà còn là vấn đề văn hoá. Trang phục là sản phẩm văn hoá mang sắc thái của nền văn hoá mỗi dân tộc. Mỗi dân tộc có cách ăn mặc và trang sức riêng, vì vậy trang phục trở thành biểu tượng của văn hoá dân tộc. Trang phục là sản phẩm mang tính thời đại, tất nhiên phải phù hợp với thời đại con người đang sống. Nhưng khi nói đến tính thời đại của trang phục không thể tách rời các giá trị truyền thống của nó. Giá trị truyền thống trước hết thể hiện ở chỗ trang phục phù hợp với điều kiện khí hậu, thời tiết, bảo vệ được sức khoẻ và tạo cho con người sự thoải mái. Giá trị truyền thống của trang phục còn thể hiện ở chỗ nó gắn liền với đức tính cần kiệm, khiêm tốn, giản dị và phong cách xã giao văn minh, lịch sự của con người.

     Văn hoá quản lí, lãnh đạo

     Lãnh đạo, quản lí nơi công sở không thể hiểu đó là vấn đề trừu tượng mà phải nói đến người lãnh đạo, người quản lí cụ thể. Khi đề cập tới khái niệm cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lí, không chỉ nhìn nhận khía cạnh quyền lực người cán bộ đó được giao mà còn phải chú ý đến văn hoá lãnh đạo, văn hoá quản lí thể hiện ở nghệ thuật lãnh đạo, nghệ thuật tập hợp, thúc đẩy những người bị lãnh đạo và nghệ thuật lãnh đạo, quản lí thực hiện các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Chất lượng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lí được tạo thành bởi các yếu tố: phẩm chất chính trị, đạo đức; trình độ trí tuệ, năng lực hoạt động thực tiễn, tinh thần sáng tạo, phong cách làm việc, mối quan hệ với quần chúng. Nghệ thuật lãnh đạo, quản lí cũng tế nhị như đặc tính của con người. Muốn lãnh đạo, quản lí có hiệu quả, người lãnh đạo, quản lí trước hết phải gần gũi người bị lãnh đạo, bị quản lí, hiểu thế giới tinh thần, hiểu được suy nghĩ nguyện vọng của họ. Người cán bộ lãnh đạo phải nắm đặc điểm tâm lí nhân cách của người thuộc quyền để có nghệ thuật ứng xử thích ứng.

     Trong đời sống văn hoá nơi công sở, sức mạnh tinh thần của cán bộ, công chức có vai trò hết sức quan trọng. Nếu người lãnh đạo có đức tính của người tổ chức, của một nhà sư phạm, nếu người lãnh đạo là người có tấm lòng hào hiệp, là người quan tâm đến đời sống tinh thần, đến tâm tư của cấp dưới thì người lãnh đạo sẽ khơi dậy, kích thích tinh thần làm việc quên mình, ý thức sáng tạo và phẩm chất đạo đức trong sáng của cán bộ, công chức. Sự đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lí không chỉ dựa trên kết quả làm việc thực hiện kế hoạch, không chỉ đánh giá theo năng suất sản xuất mà còn đánh giá theo kết quả của công tác chính trị tư tưởng của họ. Trong văn hoá lãnh đạo, quản lí nơi công sở, nhân tố quan trọng là người cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lí phải thực sự là người gương mẫu. Vị trí của người lãnh đạo đòi hỏi bản thân người ấy phải có đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm cao. Phải có trách nhiệm đối với từng hành động của mình, thể hiện được tấm gương sáng trong cuộc sống và công việc. Người lãnh đạo phải là người giáo dục và để trở thành người giáo dục thì bản thân phải tự giáo dục, phải trở thành tấm gương sống cho mọi người noi theo.

    Văn hoá giao tiếp

     “Giao tiếp là một quá trình trao đổi và tiếp xúc với nhau giữa con người với bản thân, với xã hội, với thiên nhiên, với gia đình,… trực tiếp và gián tiếp thông qua các công cụ như tiếng nói, ngôn ngữ, hành vi, tâm lí… nhằm tạo nên những quan hệ, những tri thức, những hiểu biết trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống loài người, của cộng đồng, nhóm xã hội và cá nhân con người”.

     Vấn đề đặt ra đối với cán bộ, công chức nơi công sở là sự thực hiện giao tiếp có văn hoá. Giao tiếp có văn hoá là toàn bộ những giao tiếp ở tất cả các lĩnh vực khác nhau trong xã hội đạt đến trình độ nhất định của cái đẹp, cái tốt, cái thật, phù hợp với tiêu chuẩn định hướng về văn hoá. Giao tiếp có văn hoá là những loại giao tiếp ứng xử mang tính đại diện, tính biểu trưng, tính biểu tượng, mang trong nó những thuộc tính đại diện, tính tiêu chuẩn có tính văn hoá, đạo đức và thẩm mĩ phù hợp với cảm quan và trí tuệ của một dân tộc. Hơn nữa, nó có thể là cốt lõi hình thành một cách ứng xử, giao tiếp đẹp đẽ và lành mạnh và đạt được mức độ biểu tượng cao, hình thành một lối sống đa dạng về mặt hình thức nhưng lại thống nhất về nội dung trên cơ sở định chuẩn chân, thiện, mĩ.

     Môi trường văn hoá nơi công sở

     Trong việc thực hiện môi trường văn hoá nơi công sở, vấn đề trung tâm là thực hiện đời sống văn hoá lành mạnh hướng vào việc thể hiện trình độ phát triển của con người về chân, thiện, mĩ. Thực hiện đời sống văn hoá nơi công sở chính là đưa những giá trị văn hoá cao đẹp của dân tộc nhằm giáo dục cho cán bộ, công chức những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp, phát huy năng lực trí tuệ, tạo điều điện cho họ phát triển toàn diện, hài hoà cả về tinh thần và thể chất.

     Thực hiện đời sống văn hoá nơi công sở không thể rập khuôn về nội dung, mỗi cơ quan theo đặc trưng chức năng, nhiệm vụ của mình mà lựa chọn mục tiêu phù hợp. Thực hiện đời sống văn hoá công sở phải bắt đầu từ nhận thức rõ cán bộ, công chức là công bộc của dân, mọi hành vi của họ phải thể hiện tính nhân văn. Các chỉ tiêu xây dựng cơ quan, công sở văn hoá phải dựa trên cơ sở các cuộc vận động của nhà nước, của địa phương, của ngành. Trước hết, cần hoàn thiện thể chế quản lí cán bộ, công chức nhà nước, các chế độ chính sách tuyển dụng, quản lí, đào tạo, thi tuyển, tiền lương, nâng bậc, phân định thẩm quyền, trách nhiệm. Mỗi cơ quan cần quản lí chặt chẽ cán bộ, công chức, hạn chế tình trạng lạm quyền, nâng cao tinh thần phục vụ, khen thưởng đúng mức, kỉ luật nghiêm minh. Xây dựng đời sống văn hoá của cán bộ, công chức cần chú trọng hoạt động văn hoá giáo dục nhằm nâng cao trình độ giác ngộ, phát triển toàn diện nhân cách, đặc biệt là các phẩm chất liêm khiết trung thực, tiết kiệm, thật thà, chính trực. Mặt khác, cần quan tâm tổ chức các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể thao, các hoạt động xã hội, thực hiện môi trường văn hoá, nhằm tạo ra không khí vui vẻ, sôi nổi, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá.

4Vai trò văn hoá công sở trong hoạt động công vụ

     Văn hoá công sở đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực thi công vụ. Chính văn hoá công sở ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của công sở. Vì con người là tổng hoà các mối quan hệ của xã hội và công chức là người đang thực thi Quy chế văn hoá công sở. Tầm quan trọng của quản lí nguồn nhân lực trong tổ chức khẳng định vai trò quyết định của yếu tố con người trong sự thành công của tổ chức. Văn hoá công sở được coi như một lĩnh vực hiểu biết cần thiết của các nhà quản lí nguồn nhân lực bởi quản lí con người của tổ chức rất nhạy cảm với niềm tin và giá trị tổ chức của họ.

     Văn hoá công sở có tác động tích cực đến việc xây dựng khối đoàn kết giữa công chức với công chức, giữa công chức với nhân dân và làm giảm thiểu tối đa các mâu thuẫn lẽ ra không đáng có mà lại ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của tổ chức, của nhà nước. Văn hoá công sở như là một chất keo kết nối mọi người lại với nhau. Việc tạo ra một văn hoá chung nhằm kết nối thống nhất trong quan điểm nhìn nhận, đánh giá, lựa chọn lợi ích chung cho hành động của các công chức. Điều này rất có ý nghĩa đối với các tổ chức có mâu thuẫn và sự thiếu thống nhất về nội bộ. Sự đoàn kết thống nhất trong các thành viên thể hiện dựa trên chức năng, nhiệm vụ và thực hiện chúng một cách hiệu quả. Văn hoá công sở được thực hiện tốt sẽ hạn chế sự hiểu lầm và đem lại sự hài lòng của mọi người bởi lẽ việc gặp gỡ, giao tiếp, ứng xử giữa công chức hành chính với nhau và với cả nhân dân trong hoạt động công vụ và cung ứng dịch vụ công có ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin của chính bản thân công chức cũng như của nhân dân đối với nhà nước.

     Bên cạnh việc thúc đẩy sự thống nhất trong nhận thức, văn hoá công sở cũng chính là tạo thuận lợi trong phối hợp và kiểm soát. Văn hoá công sở không chỉ xem như là một yếu tố thuận lợi cho phối hợp mà còn có trong hình thái giá trị, niềm tin, cách ứng xử, đặc biệt là trong nhận thức chung. Văn hoá công sở còn tạo ra sức mạnh để kiểm soát tổ chức. Các công chức được tự do thể hiện chính kiến của mình trong khuôn khổ cho phép. Điều này, các nhà quản lí đã tập hợp được văn hoá của họ cho lợi thế cạnh tranh. Đây chính là một minh chứng về sức mạnh của văn hoá công sở để tạo ra những ứng xử mong muốn và bảo đảm thực hiện được nguyên tắc. Đó chính là nguồn lực vô hình của tổ chức, của công sở.

      Văn hoá công sở giúp cho công sở tránh được những vấn đề phức tạp và rủi ro. Văn hoá công sở sẽ giúp truyền tải những nhận thức chung qua quá trình thực hiện hoạt động công vụ. Với những biểu tượng, truyền thống văn hoá, một công sở có thể tạo ra một thế giới riêng trong đó sự phức tạp và các yếu tố rủi ro được giảm bớt, khả năng kiểm soát các hoạt động, tối đa hoá những hoạt động có hiệu quả. Văn hoá công sở có một vị trí quan trọng thúc đẩy động cơ làm việc của cán bộ, công chức, là yếu tố quyết định đến hiệu suất và hiệu quả hoạt động của đơn vị, khuyến khích mọi thành viên mang hết nhiệt huyết để phục vụ nhân dân.

     Văn hoá công sở rất có giá trị bởi vì nó làm giảm sự mơ hồ của người công chức khi thực thi nhiệm vụ. Nó giúp họ nhận biết mọi việc nên làm như thế nào cho đúng và điều gì là quan trọng.

     Như vậy, muốn xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại phải có đội ngũ công chức hành chính với việc thực hiện tốt quy chế văn hoá công sở với các kĩ năng giao tiếp phù hợp. Bởi vì, thông qua giao tiếp với ngôn ngữ văn phong chuẩn mực, trang nghiêm trong mọi quan hệ với các đối tượng của đội ngũ cán bộ, công chức thì đường lối, chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước mới đi vào lòng người và mọi đối tượng.

     Văn hoá công sở đã và đang góp phần rất lớn trong công cuộc cải cách hành chính của nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường và xu thế hợp tác kinh tế quốc tế và hội nhập. Nó đã tạo ra những chuyển biến tích cực góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Qua đó, văn hoá công sở có tác động tích cực đến đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước.

     Văn hoá công sở đã và đang giúp cho đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện đúng những giá trị nhất định, những chuẩn mực, những hành vi ứng xử tốt nhằm đáp ứng những nhu cầu và lợi ích hợp pháp của nhân dân và của cả công chức. Nó đã và đang góp phần đáng kể vào tiến trình cải cách hành chính theo mục tiêu xây dựng nền hành chính hiện đại, có tính chuyên nghiệp cao mà Đảng và nhân dân ta đã đặt ra trong thời kì mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt trong điều kiện đẩy mạnh cải cách hành chính. Đây là tính đặc trưng nhất của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, một Nhà nước do dân và vì dân mà phục vụ. Điều này hoàn toàn khác với các xã hội khác. Đa số cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay làm việc tích cực. Điều đó thể hiện ở chỗ nhiều cán bộ, công chức sáng tạo, tư duy trong cách nghĩ, cách làm, luôn có sự năng động, sáng tạo và đổi mới; cách làm việc phục vụ, thạo việc, tác phong nhanh nhạy, không rườm rà, luôn có thái độ phục vụ với tinh thần trách nhiệm cao,… dẫn đến sự linh hoạt về phương thức hoạt động trong các cơ quan hành chính, đem lại sự hài lòng của người dân khi đến các cơ quan hành chính. Họ có lời khen ngợi về tinh thần, thái độ, ý thức trách nhiệm của đa số cán bộ, công chức trong giải quyết công việc và lợi ích của người dân được đáp ứng thoả đáng, chính đáng. Nếu việc thực hiện tốt văn hoá công sở thì chính quyền sẽ được lòng dân và cán bộ sẽ ngày càng gần dân hơn, hiểu được những tâm tư, nguyện vọng của người dân và ngay cả những cán bộ, công chức với nhau. Và điều này đã và đang nâng cao hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước với phương châm xây dựng một nền hành chính phát triển, hiện đại của một Nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân”. Từ đó cho thấy cần phải có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện tốt văn hoá công sở trong cơ quan hành chính nhà nước nhất là nâng cao tính tích cực lao động của đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước hiện nay. Tính tích cực lao động của cán bộ, công chức được đo bằng mức độ hoạt động, số lượng và chất lượng lao động. Tính tích cực lao động của cán bộ, công chức thể hiện sự năng động của người đó, thể hiện sự ham muốn lao động, nhu cầu cống hiến, sự năng nổ, chịu khó, sự chủ động trong lao động, sự sáng tạo, có trách nhiệm trong giải quyết công việc và trong các mối quan hệ với đồng nghiệp và với người dân.

     Như vậy, mỗi một nền hành chính có một đời sống văn hoá riêng đặc trưng, gắn liền và thể hiện bản chất, vai trò, phương thức tổ chức và hoạt động của nền hành chính đó. Khi bản chất, vai trò và phương thức hoạt động của nền hành chính đó thay đổi thì đời sống văn hoá công sở cũng thay đổi theo. Nếu như văn hoá công sở cũng mang những đặc trưng, những thành phần của văn hoá nói chung như định nghĩa của UNESCO, đó là những đặc trưng về tâm hồn, tri thức, xúc cảm cán bộ, công chức, đó là tư tưởng, lối sống, là phương thức ứng xử trong các mối quan hệ, là hệ thống các giá trị, chuẩn mực định hướng cho hành vi của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ,… thì có thể thấy các bộ phận trong thành phần của văn hoá công sở đều thuộc về phạm trù ý thức xã hội (tư tưởng, đạo đức, lối sống, pháp luật, quan niệm, tri thức, hệ thống các giá trị về mối quan hệ ứng xử, truyền thống, v.v.).

     Văn hoá là một hoạt động nhằm phát huy những nhu cầu và năng lực bản chất của con người, vươn tới cái chân, thiện, mĩ; là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị, chuẩn mực xã hội; là cái nôi nuôi dưỡng nhân cách của con người. Với ý nghĩa đó, văn hoá có mặt ở mọi hoạt động sản xuất vật chất cũng như sản xuất tinh thần của con người, trong mọi quan hệ ứng xử xã hội hay thái độ đối với thiên nhiên.

     Công sở là một tổ chức đặt dưới sự quản lí trực tiếp của nhà nước, có tư cách pháp nhân, được pháp luật điều chỉnh để quản lí các công việc có tính chuyên ngành và phục vụ lợi ích công. Công sở là một thiết chế xã hội – văn hoá chỉ có ở xã hội loài người. Công sở tồn tại như một hiện tượng văn hoá đồng thời là một chủ thể văn hoá gắn liền với các yếu tố tổ chức quyền lực và tâm lí, tình cảm của con người. Quan niệm về văn hoá công sở ở mỗi thời đại lịch sử, mỗi chế độ chính trị, mỗi quốc gia khác nhau thì đều khác nhau.

     Văn hoá công sở là sự pha trộn của văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Xuất phát từ đặc điểm của công sở là trụ sở công mà ở đó có tổ chức (cơ cấu, đội ngũ cán bộ, công chức); có cơ sở vật chất (nhà cửa, phòng làm việc, v.v.) cho thấy văn hoá công sở rộng hơn, bao trùm lên cả văn hoá tổ chức.

     Nói tới văn hoá công sở là nói tới việc phát huy những năng lực, bản chất của cán bộ, nhân viên trong công sở nhằm hoàn thiện chế độ công vụ, công chức. Hình ảnh tốt hay xấu của công sở đều có thể nhận thấy qua con người, nhất là những cán bộ, công chức đang giữ những vị trí then chốt trong công sở, những người phản ánh chất lượng, hiệu quả hoạt động của công sở.

5. Kết luận

     Như vậy, văn hoá công sở thuộc về phạm trù ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định mà trực tiếp là do bản chất, vai trò, chức năng, phương thức tổ chức và hoạt động của công sở hành chính quyết định. Chính vì vậy, văn hoá công sở có mối quan hệ tác động trở lại đối với tổ chức và hoạt động của công sở theo quy luật tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Điều này tạo cơ sở cho việc hình thành và phát huy vai trò của văn hoá công sở đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước. Chính vì vậy, có thể nói văn hoá công sở là nền móng sâu xa của công sở hành chính; văn hoá công sở vừa là mục tiêu của công sở, vừa là động lực duy trì, phát huy bản chất, vai trò của công sở, thúc đẩy cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Nguyễn Khắc Hùng, Văn hoá và văn hoá học đường, NXB Văn hoá Thông tin, 2012.

2. Nguyễn Thị Mai, Thực hiện quy chế văn hoá công sở trong hoạt động công vụ ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, 2011.

NGUYỄN KHẮC HÙNG 1
NGUYỄN THỊ MAI 2

__________
1. PGS TS, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hồng Bàng.

2. ThS, Trường Đại học Hồng Bàng.

(Visited 12 times, 1 visits today)