Nguyên bản tiếng Anh: LÊ THÁI BẠCH LAN1
Bản dịch tiếng Việt: VersiGoo – thanhdiavietnamhoc.com
Vào thời kỳ đầu của triều đại Lê, sống ở làng Bích-Câu2, có một học giả trẻ tên là TÚ-UYÊN. Ông được biết đến rộng rãi, vì ông xuất thân từ một gia đình học giả danh tiếng, và được nuôi dưỡng trong một thế giới sách vỡ. Ông dành phần lớn thời gian để học tập chăm chỉ, đọc to các lựa chọn văn xuôi và bài thơ yêu thích của mình, giới thiệu các từ ngữ với một niềm vui lớn.
Có hàng tá thiếu nữ công dung và giàu có muốn cưới anh ta nếu anh ta hỏi họ, nhưng anh ta không muốn cưới ai trong số họ cả.
Một ngày nọ, vào giữa Lễ hội mùa xuân, anh ta quyết định đi ra ngoài trời để tận hưởng thời gian mùa xuân và mặt trời ấm áp. Anh ta đi một mình, vì đi lang thang đó là niềm vui lớn của anh ta.
Cảnh vật trông rất đẹp như in trên mặt nước. Thiên nhiên thật xa hoa và tuyệt vời. Những cánh đồng lúa xanh mướt, những hàng cây đung đưa qua lại dưới làn gió tươi mát và những bông hoa dại len lỏi giữa những đồng cỏ xanh tươi. Mặt trời chiếu sáng rực rỡ trên cơ thể anh ta như trên những khu vườn và cánh đồng. Anh ta quay về phía mặt trời ấm áp, nhìn lên bầu trời và lắng nghe tiếng chim hót trên không trung.
« Thật đáng yêu khi mùa xuân đến » anh ta suy nghĩ vậy. « Mặt trời sưởi ấm tôi và gió đùa bỡn với tôi. Ôi ! Tôi thật may mắn biết bao! Tôi ước điều này có thể kéo dài mãi mãi.»
Sau đó, anh ta tiếp tục đi dọc theo một con đường uốn lượn quanh co dọc theo những cây ăn quả cao vợi và đang uốn mình dưới những quả vàng ánh nặng trĩu. Những đóa hồng mở ra những cánh hoa màu hồng hoặc đỏ, trắng và tỏa ra mùi thơm tuyệt vời, mạnh mẽ và đây là cách hoa đón chào mùa xuân. Mọi thứ thật tươi mới và thú vị đến nỗi TÚ-UYÊN vừa đi, vừa chiêm ngưỡng và tự hỏi rồi quên mất hết thời gian.
Cuối cùng, trời tối đã kéo đến và bầu trời lấp lánh ánh vàng dưới vằng trăng rằm.
TÚ-UYÊN trở về nhà và khi đi ngang qua chùa Tiên-Tích3 được chạm khắc phong phú, anh ta đã trông thấy một thiếu nữ xinh đẹp nhất trần gian đứng dưới một cây đào đang nở rộ. Rõ ràng là từ những ngón tay thon thon, với dáng người thanh tú, nước da mịn màng, bộ váy đẹp và sự quý phái của cô gái, cô ấy hẳn không phải là một người phụ nữ bình thường. Cô gái toát vẻ mơ màng và thanh tao như một nàng tiên, với ánh trăng đang đùa giỡn trên khuôn mặt trắng ngần và đôi mắt sáng.
Bị cuốn hút bởi cô gái, anh ta trở nên táo bạo, cúi đầu chào cô gái một cách lịch sự và nói:
«Người phụ nữ đáng kính nhất kia ơi, khi màn đêm đang đến gần, có thể người hầu khiêm nhường của bạn, một học giả không sáng danh của làng Bích-Câu2 đi cùng bạn đến nơi ở của bạn được chăng?». Cô gái xinh đẹp xoay người lại một cách duyên dáng và lịch sự nhất rồi nói rằng cô ấy sẽ rất vui mừng và biết ơn khi được chàng trai trẻ đưa về nhà.
Sau đó, họ đi cạnh nhau, mô tả cho nhau những bài hát tình yêu xen kẽ những bài thơ thông thái.
Nhưng khi họ đến chùa Quang-Minh4, người thiếu nữ đã biến mất, và chỉ sau đó TÚ-UYÊN mới nhận ra mình đã gặp một «Nàng Tiên» (cổ tích)5.
Khi về đến nhà, anh ta cứ nghĩ ngợi mãi về người thiếu nữ xinh đẹp mà anh ta đã gặp, và người mà anh ta cho rằng hiện đang ở xa xăm trên núi và rừng. Anh ta đã không nói với ai về nỗi buồn to lớn của mình – dĩ nhiên, anh ta đã vô cùng yêu cô gái, và nhớ cô ấy rất nhiều. Anh ta nằm trên giường, mơ thấy cô gái, «lơ là ngủ trong năm canh của đồng hồ đêm khuya và lấn qua sáu ngày của các ngày». Anh ta mắc phải căn bệnh «Tương-Tư» bí ẩn, loại bệnh tình mà không có thuốc nào có thể chữa được. Trong sự tĩnh lặng, anh ta đã cầu nguyện với các vị thần rằng anh ta sẽ chết sớm, để anh ta có thể ở bên cạnh cô gái ở một thế giới khác vì anh ta tin chắc rằng anh ta sẽ gặp lại cô gái bằng cách nào đó. Anh ta cầu nguyện và luôn cầu nguyện cho đến một đêm, một người đàn ông tóc trắng và râu rậm xuất hiện trong giấc mơ của anh ta và bảo anh ta hãy đi đến một cây cầu ở phía Đông trên sông Tô-Lịch6 vào ngày hôm sau để gặp cô gái mà anh ta yêu.
Ngay khi ngày nghỉ ngơi đến, anh ta quên hết bệnh tật, đã lên đường đến nơi hẹn và chờ đợi. Anh ta ở đó hàng giờ mà không thấy ai cả. Cuối cùng, khi anh ta chuẩn bị rời đi, anh ta đã gặp một người đàn ông bán một bức tranh về một người thiếu nữ trông giống hệt như người mà anh ta đã gặp dưới tán cây đào đang nở rộ ngày trước đó. Anh ta đã mua bức tranh, mang nó về nhà và treo nó lên tường ở nơi học tập của mình. Trái tim anh ta luôn ấm lên khi chiêm ngưỡng bức tranh. Và anh ta đã vuốt ve nó, thì thầm những lời yêu thương nồng nhiệt, tận tụy với nó.
Ban ngày, anh ta ngừng đọc, vứt sách đi và nhìn ngắm nó. Anh ta thức dậy vào giữa đêm, thắp một ngọn nến, chụp ảnh và trao cho nó một nụ hôn ấm áp như thể đó là một con người thực sự.
Bây giờ anh ta đã hoàn toàn khỏi bệnh, và rất hạnh phúc.
Một ngày nọ, khi anh ta đang chiêm ngưỡng bức tranh, cô gái đột nhiên di chuyển mí mắt, nháy mắt và mỉm cười ngọt ngào với anh ta.
Giật mình, anh ta dụi mắt và nhìn cô gái chằm chằm nhưng cô gái càng ngày càng cao, và bước ra khỏi bức tranh, cúi đầu chào anh ta.
… còn tiếp theo ở Phần 2 …
MỜI XEM:
◊ BÍCH CÂU Hội ngộ – Phần 2.
◊ Truyện thơ BÍCH CÂU Kỳ ngộ.
GHI CHÚ:
◊ Nguồn nội dung và hình ảnh: Vietnamese Legends – Mrs. LT. BẠCH LAN, NXB. Kim Lai Ấn Quán, Saigon 1958.
◊ Chú thích văn liệu, hình ảnh sê-pia hóa và bản dịch tiếng Việt (với công cụ VersiGoo hỗ trợ biên dịch) do Ban Tu Thư – thanhdiavietnamhoc.com thiết lập.
CHÚ THÍCH:
1 : Lời nói đầu của R.W. PARKES giới thiệu Tuyển tập Vietnamese Legends của tác giả Mrs. LT. BẠCH LAN: “Bà Bạch Lan đã tập hợp một Tuyển tập các truyền thuyết Việt Nam thú vị, mà tôi vui mừng viết một lời tựa ngắn gọn. Những câu chuyện này, được tác giả dịch tốt và đơn giản, có sức hấp dẫn đáng kể, xuất phát một phần không nhỏ từ ý nghĩa mà chúng truyền tải về các tình huống quen thuộc của con người với những trang phục kỳ lạ. Ở đây, trong khung cảnh nhiệt đới, chúng ta có những người yêu chung thủy, những người vợ ghen tuông, những người mẹ kế không tử tế, những thứ mà rất nhiều câu chuyện dân gian phương Tây cũng được tạo ra. Hơn nữa có một câu chuyện thực sự như truyện Cinderella. Tôi tin tưởng rằng qua cuốn sách nhỏ này sẽ tìm thấy được nhiều độc giả và kích thích được sự quan tâm thân thiện ở một đất nước mà những vấn đề thời nay được biết đến nhiều hơn so với văn hóa quá khứ của cô ấy. Sài Gòn, ngày 26/2/1958″. (Bản dịch tiếng Việt: Vi-VersiGoo – thanhdiavietnamhoc.com)
2 : Bích Câu là một địa danh cũ thuộc Hà Nội – hiện nay ở đây có một con phố tên Bích Câu (là con phố cắt ngang, nối phố Đoàn Thị Điểm và phố Cát Linh). Phường Bích Câu theo phỏng đoán là cả một khu vực ôm lấy nội thành phía Nam, Tây nam và Tây bắc vòng Hoàng thành Thăng Long. Bích Câu (theo bản đồ hiện nay) gồm các phố Quán Thánh, sang Hùng Vương, Nguyễn Thái Học, Quốc Tử Giám, xuôi nửa đường Tôn Đức Thắng, xuống các làng Hào Nam, Giảng Võ, rồi ngang về phía cuối các trục đường Cát Linh, Kim Mã – cả Thủ Lệ, Đội Cấn, Hoàng Hoa Thám và một phần thuộc đất làng Thụy Khuê.
Bích Câu (碧溝) theo chữ Hán có nghĩa là “ngòi biếc“, ám chỉ ngày xưa ở đây có một con ngòi (kênh, mương) nước trong xanh chảy ra hồ Giám, Lương Sử, Ngô Sĩ Liên tới hồ Kim Âu gần phố Khâm Thiên. Tương truyền chúa TRỊNH SÂM đã từng đi thuyền từ Phủ chúa (gần ngã tư Quang Trung, Tràng Thi) theo một con ngòi đến hồ Kim Âu, qua ngòi biếc này ghé đến nhà Tham tụng NGUYỄN KHẢN (anh ruột của NGUYỄN DU) ở gần Văn Miếu-Quốc Tử Giám.
Phường Bích Câu có từ rất lâu trước khi LÝ CÔNG UẨN dời đô về Đại La để lập Thành Thăng Long. Từ thời nhà Lý trở đi, phường Bích Câu phát triển thành một trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế bậc nhất ở Thăng Long. Thời hoàng kim của Bích Câu kéo dài hàng thế kỷ từ thời trung đại cho đến hết thế kỷ 19. Theo Văn Kỳ Trung hưng, sinh hoạt của phường Bích Câu náo nhiệt nhất vào những năm 40 của thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19. Các sinh hoạt ở đây đã sớm hội nhập văn minh phương Tây và cả văn minh thời Minh, Thanh, mạnh nhất là thời Khang Hy, Càn Long, Trung Quốc. Khu vực này tập trung đa phần các vua chúa, quan lại và danh sĩ, bác học từ thời Văn Lang-Thục Phán. Gia đình của NGUYỄN DU cũng ở phường Bích Câu, khi đó là một đại gia đình quý tộc.
Cái tên Bích Câu đã xuất hiện trong các câu truyện dân gian từ xa xưa. Các sách về địa chính Tống Bình, Đại La đã nói đến Bích Câu với sự tích văn hóa và lịch sử hình thành đặc biệt của nó. Trước đây Bích Câu chỉ được gọi là Trại, sau đổi là Phường. (Nguồn: wikipedia.com – Bản dịch tiếng Việt: Vi-VersiGoo – thanhdiavietnamhoc.com)
3 : Chùa Tiên Tích (110 Lê Duẩn, Phường Cửa Nam, Quận Hoàn Kiếm) có lịch sử ra đời vào đầu đời vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786). Chùa nằm trong khu vực Cửa Nam, một trong bốn cửa ngõ của tòa thành Thăng Long xưa.
Tương truyền vào đời nhà Lê, có một hoàng tử đi chơi bị lạc được các tiên đưa về nên nhà vua dựng ngôi chùa này để tạ ơn các tiên. Lại có truyền thuyết kể lại rằng, nhà vua đi chơi hồ Kim Âu thấy có vết tích của Tiên giáng trần hiện ra ở gần hồ bèn cho xây dựng ngôi chùa đặt tên là Tiên Tích (vết tích của Tiên).
Chùa được xây theo hình chữ Đinh gồm Tiền Đường, Thiên Hương và Thượng điện. Kết cấu ở đây chủ yếu là gạch, ngói và gỗ. Trong chùa, hệ thống 5 bệ thờ Phật được xếp đặt cao dần tại Thượng điện, trên đó bài trí các pho tượng của Phật giáo. Phần lớn các pho tượng này được làm dưới triều Nguyễn, thế kỷ thứ XIX.
Chùa Tiên Tích được được Chúa Trịnh mở rộng vào đầu đời vua Lê Cảnh Hưng (1740) và là một thắng tích trong vùng. Chùa được khôi phục vào đời vua Minh Mạng thứ 14 (1835) và liên tục được tu sửa, hoàn thiện. Theo sử sách xưa viết lại, chùa Tiên Tích ngày xưa rất rộng lớn, sân chùa lát đá, phong cảnh hữu tình, có hồ nước xanh mát, có hương sen thơm ngát. Chùa Tiên Tích đã trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử, với nhiều biến cố của thời gian, tuy đã làm thay đổi nhiều về diện mạo, nhưng đến nay vẫn mang đậm giá trị về mặt lịch sử, khoa học và nghệ thuật.
Sự có mặt của di tích đến hôm nay cùng các di vật như chuông đồng, bia đá là nguồn tư liệu quý phản ánh sự tồn tại không thể thiếu của đạo Phật trong đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân. Đây cũng là nguồn tư liệu quý cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu về Phật giáo Việt Nam, về lịch sử Thăng Long-Hà Nội. Nó giúp chúng ta hình dung được cảnh quan của mảnh đất kinh kỳ, hiểu thêm phần nào về đời sống cung đình, vua chúa ngày xưa. Cho đến nay, về mặt kiến trúc, nghệ thuật, chùa Tiên Tích còn bảo lưu được khá nguyên vẹn về hình thức, kết cấu, kiến trúc tôn giáo dưới thời Nguyễn. Hệ thống tượng tròn mang giá trị thẩm mỹ cao, các pho tượng của chùa được gia công tỷ mỷ, công phu, giàu tính sáng tạo. Các hiện vật này ngoài giá trị nghệ thuật còn là khối di sản quý giá kho tàng di sản văn hóa nước nhà. (Nguồn: hanoimoi.com.vn – Tuyết Minh)
4 : … đang cập nhật …
BAN TU THƯ
06 /2020