ĐỜI SỐNG TĂNG ĐOÀN ở Nalanda (Ấn Độ) vào thế kỉ 7: Kinh hành (đi bộ) theo Ghi chép của Pháp sư NGHĨA TỊNH – Phần 1

ĐỜI SỐNG TĂNG ĐOÀN ở Nalanda (Ấn Độ) vào thế kỉ 7: Kinh hành (đi bộ) theo Ghi chép của Pháp sư NGHĨA TỊNH – Phần 1

NGUYỄN CUNG THÔNG [1]

           Khoa học hiện đại cho thấy là sức khoẻ con người tuỳ thuộc vào các vận động thường ngày, cụ thể như tập thể dục, đi bộ nhiều hay ít chẳng hạn. Tuy là một hoạt động nhỏ nhặt ít ai để ý đến, nhưng đi bộ lại đem đến cho ta những lợi ích to lớn không lường cho sức khoẻ con người. Điều này cũng được ghi nhận trong các tài liệu Phật giáo cổ đại, thí dụ như trong cuốn Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện (NHKQNPT) của pháp sư NGHĨA TỊNH, soạn vào đầu thập niên 690. Bài này chú trọng đến Điều 23 trong 40 điều [2] (hay chương) của tài liệu trên. Tựa đề của Điều 23 là Kinh Hành Thiểu Bệnh 經 行 少 病 (tạm dịch/NCT: đi bộ để ít bệnh). Một số Hán tựPhạn tự được ghi lại để tránh trường hợp tối nghĩa và tiện cho người đọc tra cứu thêm khi cần.


[1]  Nhà nghiên cứu tiếng Việt độc lập (Melbourne, Australia) – địa chỉ email nguyencungthong@gmail.com . Tác giả đã gửi Bài trực tiếp về bantuthu1965@gmail.com.

[2]  Bản Hán văn chỉ ghi số 23 chứ không ghi điều hay chương, người viết dịch là điều cho phù hợp với nội dung của ‘bản nội quy‘ cho tăng ni, phù hợp phần nào với hàm ý của pháp sư NGHĨA TỊNH khi soạn NHKQNPT. 


[ ]  Các chữ viết tắt trong bài là :
NCT (Nguyễn Cung Thông), PG (Phật Giáo), sđd (sách đã dẫn), HV (Hán Việt), NHKQNPT (Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện), A (tiếng Anh).


      Một điểm nên nhắc lại ở đây: tuy NGHĨA TỊNH là người sau cùng trong ba nhà du hành nổi tiếng Trung Hoa (cũng là tăng sĩ /dịch giả) đã qua xứ Phật vào thời trung cổ, nhưng ngài ở đây ít nhất là 12 năm trong 25 năm lưu lạc ở ‘nước ngoài‘ lo học đạo, so với 10 năm của nhà sư PHÁP HIỂN và 16 năm của nhà sư HUYỀN TRANG. Khi đi du học, NGHĨA TỊNH đã là trung niên và thấm nhuần tư tưởng Phật giáo ở quê nhà. Do đó các nhận xét và ghi chép của Ngài rất sâu sắc và đáng chú ý. Thí dụ như Ngài đã than phiền trong Điều 23 rằng ‘đã từ lâu, tục đi bộ (kinh hành) hợp lý này không còn thấy tăng ni ở quê nhà (Trung Hoa) thực hiện nữa‘, hay thẳng thắn đặt vấn đề với kinh Phậttiếng Phạn về ý nghĩa của hoạt động đi vòng phía tay mặt (phải) hay hữu nhiễu HV, cách hiểu ở Ấn Độ có khác với cách hiểu theo truyền thống Trung Hoa về phương hướng – đối diện với tháp /tượng Phật thì đi theo hướng tay phải hay tay trái là sao? Xem chi tiết trong Điều 30. Cách đi theo chiều kim đồng hồ như vậy chỉ là quy ước hay truyền thống tôn trọng ân sư của đất Ấn Độ – truyền lại từ thời đức Phật Tổ – thành ra tăng ni phải tuân thủ mà thôi. NGHĨA TỊNH thường phê bình về cách dịch không chuẩn từ tiếng Phạn và cách hiểu khác nhau như đi theo chiều tay phải (hữu nhiễu), hoà thượng, chùa (tự /HV), dương chi (so với xỉ mộc), tháp (so với Tốt Đổ Ba) …, v.v… Đọc các tác phẩm của NGHĨA TỊNH, ta thấy rõ Ngài có khuynh hướng muốn tăng ni (nhất là ở quê nhà Trung Hoa) phải duy trì lề lối (vinaya वि न य ~ luật /HV ) của Phật giáo nguyên thuỷ. NGHĨA TỊNH có thành công hay không lại là một chuyện khác, không nằm trong phạm vi bài viết này.


 

1.  Pháp sư NGHĨA TỊNH và Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện

     Pháp sư NGHĨA TỊNH 義 淨, tên tục là TRƯƠNG VĂN MINH 张 文 明, sinh năm 635 ở Tế Châu (Sơn Đông) và xuất gia năm 14 tuổi. Ngài đã nghe tiếng thiền sư PHÁP HIỂN và HUYỀN TRANG hành hương xứ Phật, nên nhất định theo đuổi ý định này để tìm hiểu Phật pháp thấu đáo hơn. Tới năm 37 tuổi, Ngài mới có cơ hội đi tàu qua Srivijaya (bây giờ là Palembang ở Sumatra, từng là một trung tâm Phật giáo lớn trong vùng Đông Nam Á), ở đây 6 tháng học tiếng Phạntiếng Mã Lai, sau đó đi tàu sang Ấn Độ. Sau khi đậu ‘kì thi nhập học’, Ngài vào chùa (tu viện) Nalanda được 12 năm tu học, so với 25 năm sống ở hải ngoại và thăm viếng được hơn 30 quốc gia. Ngài đem về nước khoảng 400 bộ kinh luận tiếng Phạn, cùng khoảng 300 viên ngọc xá lợi. Cho đến cuối đời vào năm 713, Ngài luôn chăm chú dịch kinh từ tiếng Phạn (được hơn 50 bộ kinh). Một số tác phẩm nổi tiếng của NGHĨA TỊNH là Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện, Trọng Quy Nam Hải Truyện, Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện, Phạn Ngữ Thiên Tự Văn 梵 語 千 字 文 còn gọi là Phạm Đường Thiên Tự Văn, Đường Tự Thiên Man Thánh Ngữ 梵 唐 千 字 文, 唐 字 千 鬘 聖 語 …, v.v… 


       Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện gồm 4 quyển và có 40 điều (chương) được coi như là Nội quy cho các sa môn (tăng sĩ hay ni cô Phật giáo) phải noi theo cùng với các lý do và phê bình chi tiết của pháp sư NGHĨA TỊNH. Một số điều khoản trong NHKQNPT :

1)  Phá hạ phi tiểu  破 夏 非 小 (phá hạ [3] không phải là chuyện nhỏ – tạm dịch /NCT);
2)  Đối tôn chi nghi  對 尊 之 儀  (cách ứng xử với đức Phật Tổ);
3)  Thực toạ tiểu sàng  食 坐 小 床  (ngồi ghế nhỏ trong bữa ăn);
4 ) Xan phân tịnh xúc  餐 分 淨 觸  (phân biệt thức ăn sạch và dơ);

8)  Triêu tước xỉ mộc  朝 嚼 齒 木  (sáng sớm phải nhai/chà răng bằng xỉ mộc); 

23)  Kinh hành thiểu bệnh  經 行 少 病  (đi bộ để ít bệnh)

38)  Thiêu thân bất hợp  燒 身 不 合  (thiêu xác thân là không hợp lẽ trong PG);
39)  Bàng nhân hoạch tội  傍 人 獲 罪  (người ngoài cuộc mắc tội);
40)  Cổ đức bất vi  古 德 不 為  (các điều sa môn già và đạo đức không làm).


       Phần sau đi sâu hơn vào chi tiết của Điều 23. Cần nhắc lại ở đây là NHKQNPT viết bằng Hán văn thời trung cổ nên có nhiều khi khó hiểu, cùng với các văn bản chép lại có khi không giống nhau vì ở các thời đại khác nhau (tam sao thất bản) nên phải thận trọng khi muốn tìm hiểu chính xác hơn.


[3]  Hạ có nhiều nghĩa (td. mùa hè, nhà lớn, Trung Hoa, …): ở đây nghĩa là thời gian ba tháng hay khoảng 9 tuần (nhất hạ cửu tuần) mùa mưa – tăng lữ ở một chỗ (an cư) như chùa, nhà nhỏ, gốc cây mà không được đi đâu. Thành ra có nhiều cách dùng liên hệ như sơ hạ (đầu hạ), hạ thủ (ngày đầu hạ), mãn hạ, kết hạ, phá hạ, …, v.v…


2. Điều 23: Kinh hành thiểu bệnh (đi bộ để ít bệnh)

        Tham khảo bản Hán văn trong Phụ Trương 1 – phỏng dịch /NCT :

       Ở Ngũ Thiên (Ấn Độ), tăng ni hay người phàm đa số đều đi bộ qua hay lại trên cùng một con đường tuỳ theo sở thích và thời gian, nhưng tránh chỗ ồn ào. Hậu quả đầu tiên là được lành bệnh, thứ hai là giúp tiêu hoá thức ăn. Hãy đi bộ trước buổi trưa hay khi mặt trời xế bóng. Tăng ni có thể đi bộ từ chùa (tu viện) ra ngoài một quãng đường dài, hay đi bộ thong thả dưới mái hiên (hành lang) chùa. Nếu không đi bộ như vậy thì dễ sinh bệnh, như bị sưng (phù) chân hay bụng, hay bị đau vai hay tay và triệu chứng có đàm. Các bệnh này là do cơ thể không hoạt động thường xuyên. Nếu tăng ni năng hoạt động như vậy thì sẽ có sức khoẻ (thân thể) tốt cũng như tinh thần (đạo đức) thêm tăng tiến. Vì thế mà đức Thế Tôn đã từng đi bộ ở Thứu Sơn, dưới cây Bồ Đề, vườn Lộc Uyển, thành Vương Xá và khắp các thánh tích khác. Đường đi làm bằng gạch chồng lên nhau, rộng khoảng 2 khuỷu tay, dài khoảng 14 đến 15 khuỷu tay và cao hơn 2 khuỷu tay. Mặt đường đi có mười bốn hay mười lăm tượng hình hoa sen nở, làm bằng đá vôi cao hai khuỷu tay [8], đường kính một thước xưa (xích) biểu tượng cho bước đi của đức Phật Tổ. Ở hai đầu đường đi có xây tháp nhỏ, cao khoảng một người, trong đó có khi để tượng Phật Thích Ca. Khi đi vòng quanh tháp hay điện phật về phía tay mặt, vì muốn tạo phúc đức về sau, nên phải đi một cách kính cẩn. Đi bộ (kinh hành) như vậy là một hình thức làm tan biến (phiền não, thức ăn – NCT), hàm ý trừ bệnh và giữ sức khoẻ cho tốt. Thời trước, hoạt động này gọi là hành đạo, bây giờ gọi là kinh hành (đi bộ), cả hai cách gọi này không khác gì nhau [9]. Tuy nhiên, đã từ lâu thì hoạt động thích hợp này lại không còn thấy ở Trung Hoa nữa. Kinh Phật nói “quán thụ kinh hành(ngắm cây khi đi bộ – NCT), ta ngồi ở toà Kim Cương thì thấy dấu thẳng nhưng không thấy nền tròn [10].


[4]  Các bản Hán văn thời Tống, Nguyên, Minh ghi là thốn , không phải trửu (khuỷu tay).

[5]  NGHĨA TỊNH viết 無 分 涇 渭 vô phân Kinh Vị, nghĩa đen là không phân biệt sông Kinhsông Vị – nghĩa bóng là không phân biệt được – người viết/NCT dịch là không khác gì nhau. Thành ngữ bốn chữ Kinh Vị bất phân từng hiện diện trong Thi Kinh (Bội Phong, Cốc Phong): sông Kinh nước đục, sông Vị nước trong cho nên để phân biệt đục trong (hay phải trái, tốt xấu …) trong văn chương cổ điển hay dùng Kinh Vị như Kinh Vi bất phân, Kinh Vi phân minh…, v.v…

[6]  Có thể các tượng toà sen (hình tròn) được đặt lên trên đường đi sau này, thời Nghĩa Tịnh chỉ có con đường đức Phật Tổ đã đi sau khi đã giác ngộ dưới cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng – xem hình đoạn đường này trong Phụ Trương bài viết (gọi là Buddha Walk hay Jewel Walk tiếng Anh) – hình chụp các toà sen biểu tượng của bước đi đức Phật Tổ /Phụ Trương mục 3. Để ý các toà sen, Toà kim cương được phục dựng sau bao ngàn năm hoang phế.


3. Bàn thêm về Điều 23

     Các cách dùng Ngũ Thiên (chỉ Ấn Độ), Phật (Bụt) đã được giải thích trong bài viết “Đời sống tăng đoàn ở Nalanda (Ấn Độ) vào thế kỉ 7: cây xỉa /chà răng theo Ghi chép của pháp sư NGHĨA TỊNH” cùng tác giả (NCT). Đây là cách dịch/phiên nghĩa so với cách kí/phiên âm HV của các thuật ngữ bằng tiếng Phạn. Các cách dùng đặc biệt trong Điều 23 là :

3.1  Kinh hành

     Cụm từ HV kinh hành 經 行 là dịch nghĩa của tiếng Phạn caṅkramati च ङ्क्र म ति, tiếng Palicaṅkamati – có gốc là động từ tiếng Phạn kram là đi bộ – từ ghép caṅkramati hàm ý đi tới đi lui, đi lên đi xuống, đi vòng quanh… Người viết dịch kinh hành là đi bộ cho đơn giản và dễ nhớ, nhưng thật ra NGHĨA TỊNH giải thích thêm là cần chiêm nghiệm (hoạt động tinh thần, trừu tượng) như ngắm cây (quán thụ) song song với đi bộ (hoạt động vật chất, cụ thể). Ngài cho biết là thời trước dịch là hành đạo 行 道. Có lẽ một cách dịch hậu kì khác của caṅkramatihành thiền 行 禪 (tiếng Việt có lúc dùng thiền hành) cho ta thêm thông tin về phương pháp thực hành thiền định này: vừa đi bộ vừa thiền định. Một số tài liệu giải thích kinh hành là đi bô và quán tưởng cho bớt buồn ngủ (td. khi toạ thiền 坐 禪) và cũng là một hoạt động như tập thể dục trong đời sống tu sĩ. Đức Phật Tổ nêu lên năm lợi ích của kinh hành là khả năng chịu đựng đường trường (đi xa), khả năng chịu đựng và cố gắng (rèn luyện tinh thần), tiêu hoá tốt hơn, sức khoẻ tốt hơn (ít bệnh), an trụ lâu trong thiền định [7] (so với toạ thiền chẳng hạn) – xem thêm chi tiết trong mục 3.13 bên dưới.


[7]  TUỆ SỸ dịch, chú. ĐTKVN, Bộ A-HàmTrường A-hàm, 2007. HN: NXB Tôn giáo, trang 183.
[8]  Các bản Hán văn thời Tống, Nguyên, Minh ghi là thốn , không phải trửu (khuỷu tay).

[9]  NGHĨA TỊNH viết 無 分 涇 渭 vô phân Kinh Vị, nghĩa đen là không phân biệt sông Kinh và sông Vị – nghĩa bóng là không phân biệt được – người viết/NCT dịch là không khác gì nhau. Thành ngữ bốn chữ Kinh Vị bất phân từng hiện diện trong Thi Kinh (Bội Phong, Cốc Phong): sông Kinh nước đục, sông Vị nước trong cho nên để phân biệt đục trong (hay phải trái, tốt xấu…) trong văn chương cổ điển hay dùng Kinh Vị như Kinh Vi bất phân, Kinh Vi phân minh…, v.v…

[10]  Có thể các tượng toà sen (hình tròn) được đặt lên trên đường đi sau này, thời Nghĩa Tịnh chỉ có con đường đức Phật Tổ đã đi sau khi đã giác ngộ dưới cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng – xem hình đoạn đường này trong Phụ Trương bài viết (gọi là Buddha Walk hay Jewel Walk tiếng Anh) – hình chụp các toà sen biểu tượng của bước đi đức Phật Tổ /Phụ Trương mục 3. Để ý các toà sen, Toà kim cương được phục dựng sau bao ngàn năm hoang phế. 


toa.sen-buoc.di-duc.the.ton-bo.de.dao.trang-vietnamhoc.net
Hình 2:  Toà sen tượng trưng Bước đi của Đức Thế TônBồ Đề đạo tràng (Nguồn: holeinthedonut.com) 

3.2  Khuỷu tay (trửu HV)

      NGHĨA TỊNH đã cố gắng dịch ‘sát nghĩa’ của đơn vị đo lường cổ đại Ấn Độ: tiếng Phạnhasta ह स्त (tiếng Pali hatta) hàm ý chiều dài từ đầu ngón giữa đến cùi chỏ hay khuỷu tay. Thành ra ngài đã dùng chữ trửu HV (~ khuỷu tay [11]). Hasta tiếng Anh dịch là cubit (gốc tiếng La Tinh cubitum nghĩa là khuỷu tay).

       Các đơn vị chiều dài liên hệ trong tiếng Phạn :

+  Một (1) hasta = 1 kara = 1 aratni = 24 aṅgulas = 2 vitastis ~ 45.7 cm  (A)

      Theo Vận Hội 韻 會 (TK 13), trửu là đơn vị đo chiều dài bằng hai thước xưa (xích) hay một thước xưa và năm tấc xưa, trích Vận Hội về các đơn vị chiều dài Trung Hoa thời trung cổ :

一 曰 一 肘 二 尺,一 曰 一尺 五 寸 爲 一 肘,四 肘 爲 一 弓,三 百 弓 爲 一 里

        Tạm dịch/NCT: thường một trửu là hai xích, hay còn là một (1) xích và năm (5) thốn; một cung là bốn (4) trửu và một là ba trăm (300) cung.

       Để ý là vào thời nhà Thương (1600 – 1045 TCN) một xích dao động từ 0,1675 cm đến 0,1690 cm, so với thời Đường thì một xích dao động từ 0,2645 cm đến 0,2955 cm. Đến thời nhà Thanh thì một xích dài hơn so với trước và dao động từ 0,3080 cm đến 0,3352 cm chẳng hạn. Hai xích bằng khoảng 2 x 29,4 = 58,8 cm hay một trửu dao động từ 44 cm đến 52 cm theo tác giả ZHANG JING TING (sđd). Đây là tính trung bình vì giá trị của xích thay đổi theo thời gian. Tác giả TAKAKUSU (sđd) dẫn các tài liệu cho thấy hai khuỷu tay vào thời Nghĩa Tịnh bằng khoảng ba (3) feet hay khoảng 91 cm, phù hợp với quãng dao động của hai (2) trửu – từ 88 cm đến 104 cm.

       Một dữ kiện thú vị là các bản Hán văn của Điều 23 vào thời Tống, Minh, Nguyên đều thay chữ trửu bằng chữ thốn cho chiều cao đường đi. Điều này có thể hợp lý hơn vì độ cao đường đi 2 thốn bằng khoảng 5 cm đến 6 cm có thể an toàn hơn là 2 trứu (khuỷu tay) hay khoảng 88 cm đến 104 cm, nhắc lại là mười thốn bằng một xích (từ thời Hán như trong Luật Lịch Chí).


[11]  Có khả năng khuỷu tiếng Việt là một biến âm thời trung cổ của trửu qua tương quan tr/tl – kl – k như trêu – lêu – khiêu (khêu). Trửu đọc theo phiên thiết 陟 柳 切 trắc liễu thiết (Thuyết Văn Giải Tự, Đường Vận, Quảng Vận, Tập Vận), 陟 肘 切 trắc trửu thiết (Chánh Vận). Tham khảo chi tiết trong Bài viết “Tiếng Việt từ TK 17: tóm tắt một số phong tục và các cách dùng như lêu trâu (tlâu) húc nhau, khêu đèn, trêu (tlêu), ghẹo (phần 49) cùng tác giả (NCT).


3.3  Thứu sơn

      Thứu sơn là dịch nghĩa của tiếng Phạn gṛdhrakūṭa, là chữ ghép của grudhrah गृ ध्रःcon kên kên (~ thứu HV ) và kuta कू टđỉnh núi (~ sơn HV ), tiếng Pali là gijjhakuta. Các cách gọi khác là Linh Thứu sơn, Linh sơn, Thứu sơn, Thứu Phong sơn so với dạng kí âm HV là Kì Đồ Quật sơn 耆 闍 崛 山. Tương truyền là hình đỉnh núi giống con kên kên và khu vực này cũng là nơi tập trung của loài này vào thời đức Phật Tổ. Chính nơi này đức Thế Tôn đã làm hương thất, cũng như là am thất của các đệ tử như Xá-lợi-phất (Sariputta), Ma-ha-ca-diếp (Maha Kassapa), Mục-kiền-liên (Moggallana) và A nan (Ananda), … Đức Thế Tôn cũng từng giảng các kinh như Liên Hoa, A Hàm, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Bát Nhã ở đây. Các nhà sư HUYỀN TRANG, PHÁP HIỂN và NGHĨA TỊNH đều đã ghé thăm Thánh địa này của Phật giáo và ghi chép lại trải nghiệm của mình.


3.4  Giác thụ

       Danh từ này ít gặp nhưng là một cách dịch nghĩa của tiếng Phạn bodhidruma बो धि द्रु म nghĩa là cây bồ đề: từ này ghép chữ bodhi बो धि hàm ý giác ngộ/tỉnh thức (bồ đề 菩 提 là dạng kí âm thường gặp dịch nghĩa là giác tri, tri, đạo HV) và chữ druma द्रु म hàm ý cây (~ thụ HV), do đó giác thụ HV là cây bồ đề – còn gọi là Phật thụ 佛 樹 hay Đạo thụ 道 樹. Đức Thế Tôn đã thành đạo dưới cây bồ đề sau 7 ngày 7 đêm, thành ra Phật giáo luôn coi cây bồ đề là một loài cây thiêng, một biểu tượng đánh dấu sự kiện đại giác của đức Phật Tổ. Cây bồ đề (bồ đề thụ 菩 提 樹 – theo pháp sư HUYỀN TRANG /Tây Vực Kí) là loại cây mòng (berry tiếng Anh) hay loai sung (fig tiếng Anh), tiếng Phạn là pippala पि प्प ल với các kí âm HV là tất bát la 必 缽 羅bí bát la 庳 缽 羅, tất bát la 畢 波 羅, …, v.v… Để ý âm HV tất [12] có một dạng âm cổ phục nguyên là *pi(t), giải thích tại sao lại kí âm pippalatất bát la HV.


[12]  Hiện tượng trùng nữu: phụ âm p- trở thành t- tiếng Việt như tân lang 檳 榔 có gốc là pinang (pin > tân, nang > lang – lẫn lộn n – l)… Tham khảo chi tiết trong Bài viết “Tiếng Việt từ TK 17: nên mười tuổi và nên hoa(phần 32) cùng tác giả/NCT.


cay-bo.de-ananda-than-xa.ve-nepal-vietnamhoc.net
Hình 3:  Cây bồ đề Ananda, thành Xá Vệ, xứ Nepal

3.5  Lộc Uyển

        Lộc Uyển là dịch nghĩa của tiếng Phạn mriga-dāva मृ ग दा य, tiếng Pali là miga-dāya. Mriga-dāva là từ ghép từ mriga मृ ग chỉ loài nai/hươu (~ lộc HV 鹿 )dāva दा य chỉ nơi chốn ~ uyển HV . Lộc uyển còn gọi là lộc dã uyển 鹿 野 苑. Có tài liệu ghi từ nguyên của Lộc Uyển là tiếng Phạn स र ङ्ग ना दsaraṅga-nāthá hay ऋ षि प त नṛṣi-patana tiếng Pali là isi-patana…. Lộc uyển là nơi đức Phật Tổ đầu tiên giảng kinh Chuyển Pháp Luân, Tứ Thánh Đề cho các đệ tử, cũng là nơi thành lập tăng đoàn Phật giáo đầu tiên. Từ đó Lộc Uyển đã trở thành một trong Tứ Thánh địa của Phật giáo – NGHĨA TỊNH dùng danh từ ‘thánh tích’ trong Điều 23. Các nhà sư HUYỀN TRANG, PHÁP HIỂN và NGHĨA TỊNH đều đã ghé thăm Thánh địa này của Phật giáo và ghi chép lại trải nghiệm của mình.


[13]  Hiện tượng trùng nữu: phụ âm p- trở thành t- tiếng Việt như tân lang 檳 榔 có gốc là pinang (pin > tân, nang > lang – lẫn lộn n – l)… Tham khảo chi tiết trong Bài viết “Tiếng Việt từ TK 17: nên mười tuổi và nên hoa(phần 32) cùng tác giả/NCT.


… còn tiếp ở Phần 2 …

Tài liệu tham khảo chính

1) ANN HEIRMAN /MATHIEU TORCK (2012) “A Pure Mind in a Clean Body: Bodily Care in the Buddhist Monasteries of Ancient India and China” – NXB Academia Press, Gent (Belgium);

2)  ATIKARN GAINEY /HIROFUMI TANAKA /THEP HIMATHONGKAM /DAROONWAN SUKSOM  (2016) “Effects of Buddhist Walking Meditation on Glycemic control and Vascular function in Patients with Type 2 Diabetes” đăng trong Tạp chí Complementary Therapies in Medicine 26 (11);

3)  LI RONGXI (2000) “Buddhist Monastic Traditions of Southern Asia: A Record of the Inner Law Sent Home from the South Seas” NXB Numata Center for Buddhist Translation and Research, Berkeley (California, USA) – bản dịch ra tiếng Anh từ cuốn 南 海 寄 歸 內 法 傳 (Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện – soạn giả NGHĨA TỊNH);

4)  NGUYỄN CUNG THÔNG (2011) “A Di Đà Phật hay A Mi Đà Phật?” – có thể tham khảo bài viết này trên Thư viện hoa sen

NGUYỄN CUNG THÔNG (2025) “Đời sống tăng đoàn ở Nalanda (Ấn Độ) vào thế kỉ 7: cây xỉa/chà răng theo Ghi chép của pháp sư NGHĨA TỊNH”.

5) TAKAKUSU JUNJIRO (1896) “A Record of the Buddhist Religion as Practised in India and the Malay Archipelago” NXB Clarendon Press (London) – bản dịch ra tiếng Anh từ cuốn 南 海 寄 歸 內 法 傳 (Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện – soạn giả NGHĨA TỊNH);

6)  TANSEN SEN (2018) “Yijing and the Buddhist Cosmopolis of the Seventh Century” bài viết đăng trong chương 13 cuốn “Texts and Transformations – Essays in Honor of the 75th Birthday of Victor H. Mair” chủ biên HAUN SAUSSY – NXB Cambria Press (2018);

7)  TING ZHANG, WANYUE CHEN, RAN LI, LILI XU, YUNYUI SHEN, XINYANG SONG, TINGTING KUANG & ZHANG WANG (2024) “Journal Nanhai Jigui Neifa Zhuan: exploration of and research on hygiene, medicine and health care knowledge in ancient India” đăng trong tạp chí y khoa – dân tộc Journal of Ethnobiology and Ethnomedicine ngày 27/9/2024;

8)  TỪ NGUYÊN 辭 源 (2004) – NXB Thương Vụ Ấn Thư Quán – Bắc Kinh (2004);

9)  ZHANG JINGTING (2018) “The Buddhist Sangha life in the seventh century: based on a record of the Inner Law sent home from the South Seas of Yijing” luận án tiến sĩ – Graduate school – Mahachulalongkornrajavidyalaya University (Thái Lan).


MỜI XEM :
◊  ĐỜI SỐNG TĂNG ĐOÀN ở Nalanda (Ấn Độ) vào thế kỉ 7: Kinh hành (đi bộ) theo Ghi chép của Pháp sư NGHĨA TỊNH – Phần 2.

CHÚ THÍCH :
◊  Các chữ nghiêng, chữ in, chữ màu và một ít ‘biên tập nhẹ‘ do Ban Tu Thư thanhdiavietnamhoc.com thực hiện.

BAN TU THƯ
02 /2025

(Visited 18 times, 1 visits today)