TRẦN THỊ KIM LIÊN1 , HOÀNG THU HẰNG2
(1Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM
2Viện Khoa học Lao động và Xã hội)
TÓM TẮT
Bài viết sử dụng các phương trình dự báo việc làm trong các ngành kinh tế theo phương pháp hồi quy OLS để dự báo số lượng lao động có việc làm theo giới tính, nhóm tuổi, ngành, nghề, trình độ chuyên môn kỹ thuật, hình thức sở hữu, vị thế công việc; từ đó tìm ra xu hướng việc làm và phân bố lao động ở khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2019-2025. Kết quả dự báo sẽ là cơ sở cho Tỉnh đưa ra những chính sách phát triển nguồn lao động và phân bố lao động phù hợp với cộng đồng dân cư cũng như chính sách phát triển kinh tế-xã hội khu vực nông thôn trong thời gian tới.
ABSTRACT
This paper utilizes equation of labour forecast in economic sectors by using OLS method to estimate quantity of employed labour by gender, age, sector, occupation, technical skills, possession, job status. By this way, it is able to find labour trend, labour distribution in rural areas of An Giang province, in the period of 2019-2025. The forecast result will provide more evidence for the province in making policy of labour development, labour allocation and distribution that is appropriate to local area as well as socio-economic development policy in rural areas in the forthcoming time.
x
x x
1. Giới thiệu
Những năm gần đây, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang xác định phát triển nguồn nhân lực phải gắn với quá trình đổi mới chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Lấy năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động làm căn cứ đánh giá kết quả, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Trong đó, đã xác định:
Phát triển theo hướng không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và xây dựng nền kinh tế xanh để tạo nền tảng phát triển thương mại – dịch vụ, công nghiệp chế biến và xây dựng.
(Đảng bộ tỉnh An Giang, 2016).
Do đó, mục tiêu xây dựng nguồn lực muốn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế; để tạo thành động lực tổng hợp thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, nhất là khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh An Giang hiện nay thì việc phân bố nguồn lao động hợp lý phải phối hợp hài hoà nhiều biện pháp phân bổ theo từng lĩnh vực sản xuất, từng ngành trong nội bộ từng ngành kinh tế, từng khu vực địa lý của tỉnh nhằm thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa thành công trong giai đoạn mới. Để thực hiện hiệu quả vấn đề này, phân tích và dự báo xu hướng phân bố lao động là một nhiệm vụ thiết yếu của công tác hoạch định phát triển kinh tế hiện nay và là cơ sở khoa học cho việc định hướng xây dựng chiến lược, kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội, kết nối cung – cầu lao động nhằm giảm tỉ lệ mất cân đối nguồn nhân lực ở tỉnh An Giang nói riêng và các địa phương khác ngoài tỉnh nói chung.
Đề cập đến dự báo nhân lực và nhu cầu nhân lực nói chung và dự báo xu hướng phân công lao động tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu như Đỗ Văn Chấn và cs. (1996); Nguyễn Đông Hanh (1984); Trần Thị Phương Nam, Mai Thị Thu (2013). Nhìn chung, các nghiên cứu đã cung cấp bức tranh khái quát về các mô hình dự báo nhân lực theo kinh nghiệm quốc tế, làm rõ một số vấn đề lý thuyết về các phương pháp dự báo trong điều kiện nền kinh tế thị trường, dự báo cơ cấu đội ngũ cán bộ chuyên môn theo các ngành kinh tế quốc dân, trình bày những cơ sở lí luận dự báo nhu cầu nhân lực được đào tạo; giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu do thực tiễn đặt ra, góp phần quan trọng vào việc hoạch định chiến lược và lập kế hoạch phát triển đào tạo nhân lực ở Việt Nam.
Về các lý thuyết dự báo còn kể đến các nghiên cứu của các tác giả Michael R.Carrell, Norbert F.Elbert và Robert D. Hatfield đã trình bày một cách cụ thể mang tính lý thuyết trong xây dựng chiến lược quản lý nhân lực, tác giả Francis X. Diebold với những bước cơ bản để thực hiện thành công một dự báo, những nguyên tắc để thực hiện thành công dự báo, các mô hình dự báo cơ bản: Mô hình trung bình chuyển động, dự báo theo các chu kỳ, mô hình dự báo tổng hợp, mô hình hồi quy. Một mô hình dự báo mang tính vĩ mô là mô hình cơ sở BLS do Cục Thống kê lao động của Mỹ (US. Bureau of Labor Statistics) thực hiện. Mô hình này thể hiện các bước thực hiện như: Lực lượng lao động, tăng trưởng kinh tế chung, nhu cầu sản phẩm trong nước (GDP) chia theo ngành, đầu ra-đầu vào, nhân lực theo ngành, nhân lực theo nghề. Kết quả dự báo mô hình này cho phép thể hiện chi tiết cho các ngành và nghề nghiệp. Tương tự, Mô hình IER (The Institute of Employment Rights – UK) do Viện về Quyền của Người lao động của Anh thực hiện cho phép phân tích chi tiết hơn, đó là những nhu cầu theo nghề, đào tạo theo vùng miền và giới tính.
Liên quan đến nghiên cứu xu hướng lao động việc làm ở nông thôn, Jonna Estudillo và cs. (2013) trong Labor markets, occupational choice, and rural poverty in four Asian countries đã có những phát hiện về cơ chế thị trường lao động khu vực nông thôn của Philippines, Việt Nam, Bangladesh và Sri Lanka; từ đó đề xuất các chính sách cải thiện việc làm và mức sống của người lao động nông thôn. Ngoài ra, một nghiên cứu của Jennifer Cheung trong bài viết China’s Inland Growth Gives Rural Laborers More Opportunities Near Home đã khẳng định việc lao động di cư của Trung Quốc có xu hướng tính đến cơ hội việc làm gần nhà hơn khi khu vực kinh tế nội địa phát triển.
Đặc biệt, Jasmmin Thomas (2015), đã dự báo việc làm, nghề nghiệp với các kỹ năng, đào tạo và giáo dục cần thiết để đáp ứng nhu cầu lao động trong tương lai. Nghiên cứu này sử dụng bộ số liệu khảo sát cung – cầu thị trường lao động bằng nhiều phương pháp, trong đó có cả phương pháp dự báo bình phương nhỏ nhất (OLS) và mô hình hồi quy Multilogic để dự báo việc làm, phân bố việc làm theo trình độ, nghề nghiệp. Nghiên cứu cũng thảo luận về các phương pháp có thể thực hiện để ước tính cung và cầu lao động nghề nghiệp trong tương lai mà người lao động nông thôn phải đối mặt. Đây là cơ sở để nhóm nghiên cứu vận dụng và phát triển phương pháp hồi quy OLS phù hợp trong dự báo số lượng lao động có việc làm ở khu vực nông thôn An Giang – phương pháp này phù hợp với dạng số liệu trong quá khứ dùng để dự báo (số liệu dạng chuỗi, dạng chéo).
2. Phương pháp dự báo và số liệu
2.1 Phương pháp dự báo
Phương pháp dự báo việc làm trong toàn nền kinh tế và trong các ngành kinh tế. Chi tiết của phương pháp luận dự báo việc làm trong toàn nền kinh tế được chỉ ra bởi phương trình (1) dưới đây, đó là hồi quy ln(LD) theo các biến độc lập ln(GDP), t, t2 và t3 cũng như các biến trễ của ln(LD), ln(GDP) (Đỗ Văn Thành, 2015B). Hồi quy:
ln(LD)=a1*ln(LD(-1) + a2*ln(GDP) + a3*t + a4*t2 + a5*t3 + c (1)
Trong đó:
LD: Số lao động đang tham gia hoạt động kinh tế trong toàn tỉnh.
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội được tính theo giá so sánh.
LD(-1): Biến LD trễ bậc 1.
t = năm -2010 (vì số liệu thống kê có được bắt đầu từ năm 2010).
a1, a2, a3, a4 và a5 là các hệ số ước lượng; c là sai số ngẫu nhiên.
Biến phụ thuộc: LD ; Biến giải thích: GDP, LD(-1), t.
Bằng sử dụng kỹ thuật hồi quy theo phương pháp bình phương nhỏ nhất trên tập dữ liệu thống kê liên quan đến các biến LD, GDP và t, ta sẽ xác định được các hệ số của phương trình (1) và sau đó: Số lao động tham gia hoạt động kinh tế: LD =eln(LD).
Phương trình mà các hệ số được ước lượng dựa trên tập số liệu thống kê thực tế như phương trình (1) ở trên được gọi là phương trình hành vi. Ngược lại thì được gọi là đồng nhất thức.
Trong phương trình (1), yêu cầu hệ số a2>0 và nó ngầm ý rằng việc làm phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế. Khi GDP tăng lên thì việc làm mới cũng được tạo thêm mới và ngược lại khi GDP giảm thì một số việc làm sẽ mất đi. Hơn nữa nếu trong phương trình (1) không có các thành phần liên quan đến biến t thì a2 được gọi là hệ số co dãn giữa việc làm và GDP. Nó cho biết khi GDP tăng lên hoặc giảm đi 1% thì số việc làm cũng tăng lên hoặc giảm đi a2%.
Tuy nhiên, do Việt Nam là nước đang phát triển, quá trình phát triển kinh tế gắn liền với quá trình áp dụng khoa học công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến nên hệ số co giãn giữa việc làm và GDP là không ổn.
Để xem đầy đủ nội dung bài viết, vui lòng xem file bên dưới:
Download file (PDF): Dự báo xu hướng phân bố lao động ở khu vực nông thôn tỉnh An Giang giai đoạn 2019 – 2025 (Tác giả: Trần Thị Kim Liên; Hoàng Thu Hằng) |
Nguồn: Tạp chí Khoa học Quốc tế AGU. ISSN 0866-8086
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 8 – 17
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)