Hiểu biết về Việt Nam – Thợ thủ công Việt Nam xưa

Hiểu biết về Việt Nam – Thợ thủ công Việt Nam xưa

PIERRE HUARD1
Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp2
(trích từ sách Hiểu biết về Việt Nam /Connaissance du Vietnam
3)

     Ngoài những người thợ chuyên tâm về kỹ thuật chế biến thực phẩm và may mặc (xem các chương XIV, XV, XVI) thì thợ thủ công có thể được phân bố như sau :

  1. Thợ làm đồ kim loại (thợ sắt tây, đồ đồng, đồ trang sức, khảm men huyền, đúc tiền, chế tạo binh khí).
  2. Thợ gốm (thợ làm hình chậu, đồ sành, đồ sứ, thợ mộc hải quân, thợ khắc).
  3. Thợ làm hàng dệt (thợ dệt vải bông, đay, gai hay tơ lụa, thợ đan lát, may buồm, làm dây thừng, làm lọng, dệt chiếu, may túi, dệt mành, làm mũ, áo choàng, và đan võng).
  4. Thợ làm đồ da (thợ thuộc da và thợ giày).
  5. Thợ sơn mài.
  6. Thợ khắc gỗ và đá.
  7. Thợ làm đồi mồi, sừng và ngà.
  8. Thợ làm đồ thờ.

     Đa số những người thợ này là thợ làm tự do. Nhưng triều đình Huế không phân biệt nghệ nhân và thợ thủ công. Và có những [216]4 xưởng thợ thật sự là của Nhà nước, bao gồm những thợ thêu, thợ khảm, thợ khảm men huyền, thợ sơn mài, thợ khắc, người làm đồ ngà và làm đồ trang sức.

     Dụng cụ của người Việt thì đơn giản, nhẹ và đã được chế tạo hoàn toàn thích ứng với những vấn đề mà một người thợ khéo léo, kiên nhẫn và không cần phải tìm cách tiết kiệm thời giờ để giải quyết công việc. Đinh ốc và bu-lông thường được thay thế bằng những cái nêm bằng gỗ. Những dụng cụ thông dụng mà người ta thường sử dụng – được kể như sau: cái cần, cái giá đỡ, cái nêm để chẻ, bàn ép có chêm, chiếc bánh răng, cái trục xe và bánh xe vận động, sức nước (cối xay nước, chày gĩa gạo), động cơ đạp chân, đồ dùng gieo hạt và bừa đất, chiếc xa và ống pít-tông (nguồn gốc hình như là từ một nền văn hóa tổng hợp ở vùng Đông Nam Á mà trong đó văn hóa Hán Việt đã được chuyên môn hóa).

       MERCIER5 đã nêu rõ các đặc trưng của những dụng cụ này. Nhưng về điều đó! chúng ta vẫn chưa có một công trình khảo cứu nào tương ứng với cuốn sách Nước Trung Hoa hoạt động (China at work) của Rudolf Hommel 6.

     Thợ thủ công đồng thời cũng là người buôn bán. Họ tính tiền không cần dùng đến bút, tựa như người La Mãngười Châu Âu vào thời Trung cổ. Ngươi ta cho rằng LƯƠNG THẾ VINH7 (đậu tiến sĩ vào năm 1463) là người đã soạn thảo cuốn sách Toán có nhan đề Toán pháp đại thành – có lẻ là đã được ông ấy hiệu chỉnh từ một công trình của VŨ HỮU8– một người đương thời với ông ấy – nói về cách sử dụng bàn tính. Bàn tính9 vẫn còn hay được thương nhân Trung Quốc sử dụng, nhưng hình như nó bị các đồng nghiệp người Việt của họ bỏ qua. DISPIERES mới nghiên cứu về nó gần đây.

      Biển hiệu đôi khi chỉ nêu tên của chủ hiệu. Thường thường, nó chỉ nêu tên pháp lý – gồm hai chữ – đôi khi là chữ Hán (hay phiên âm của những chữ đó sang tiếng La-tinh) có ý nghĩa như là một điềm báo tốt.

[217]  TChủ xưởng (phiên âm sang tiếng Trung Quốc là tch’ang) – có ý nghĩa là “huy hoàng” và “thịnh vượng“; từ ngữ ấy được dùng để đặt cho các tên hiệu – ví dụ như là Vĩnh Phát Xương (nghĩa làSự thịnh vượng muôn đời rạng rỡ) hoặc Mỹ Xương (nghĩa là “Sự huy hoàng đẹp đẽ’’), ... Những tên hiệu pháp lý khác – có thể kể là: Vạn Bảo (Vạn đồ quý), Đại Hưng (Hưng thịnh lớn), Quỷ Ký (Dấu hiệu cao quý) và Yên Thành (Sự yên ổn hoàn toàn), vv...

     Một tục lệ thường xuyên có thể thấy ở người buôn bán là tục đốt vía10 đốt van.

    Khách hàng có khi có vía lành hoặc vía tốt, có khi có vía xấu hoặc vía dữ. Nếu vía của người khách đầu tiên là vía xấu hay vía dữ, và sau khi người đó mặc cả một hồi lâu rồi bỏ đi mà chẳng mua gì cả, thì tất cả các khách hàng đến sau người đó có thể sẽ bắt chước theo người này. Trong trường hợp này, người bán hàng phải xua đuổi vận rủi bằng cách cắt lấy bảy cuộng rơm – nếu khách là đàn ông – ở mũ của mình để đốt đi, và chín cuộng rơm – nếu khách là đàn bà11. Cũng lúc đó, ngươi bán hàng khấn vái như sau :

       Đốt vía đốt van, đốt thằng rắn gan, đốt con rắn ruột, vía lành thì ở, vía dữ thì đi.

      Chính vì cũng do mê tín như vậy mà bọn giặc cướp đã giết ngay người qua đường đầu tiên mà chúng gặp khi chúng đi cướp phá!

CHÚ GIẢI :

1:  PIERRE HUARD (16/10/1901, Bastia-Corse – 28/4/1983, Paris) là một giáo sư, bác sĩ người Pháp. Ông học trung học và tốt nghiêp tú tài tại Monpellier, Nantes. Sau đó, ông học ngành sử học và theo lời khuyên của cha, ông đã học ngành y ở Trường École de santé navale (Brest, Bordeaux). Sau khi tốt nghiệp bác sĩ, với đầu óc thích phiêu lưu, ông đã đến và phục vụ tại các nước thuộc địa ở Phi Châu của Pháp (Syrie, Liban, Senegal, …) với nhiệm vụ là một bác sĩ giải phẫu. Sau 2 năm ở Phi châuTrung Đông, ông trở về Marseille, Pháp làm giảng viên, rồi trở thành giáo sư.

     Ông được điều động sang Đông Dương (năm 1933) và đã gắn bó với Việt Nam trong suốt 20 năm. Ông thường nói với sinh viên Trường Y Hà Nội rằng Việt Nam là quê hương thứ hai của ông. Ông là Trưởng khu giải phẫu Bệnh viện Đồn Thủy (Lanessan – được xây dựng vào năm 1893 để khám và chữa bệnh cho quân lính và công chức người Pháp. Ngày nay là Bệnh viện Quân y 108). Ông tham gia giảng dạy môn Cơ thể học tại Trường Đại học Y Hà Nội và là người đầu tiên sắp xếp hồ sơ bệnh lý trong bệnh viện để sinh viên thực hành và dễ dàng tìm tài liệu nhằm viết luận văn (theo GS. Nguyễn Tấn Gi Trọng). Ông là người thành lập Ngạch nội trú cho các bệnh viện (Internat des Hôpitaux) và là Trưởng khu lâm sàng (Chef de Clinique) ở Hà Nội. Ông là Hiệu trưởng người Pháp cuối cùng (1947–1954, 8 năm) của Trường Đại học Y Dược Hà Nội. Sau khi Hiệp đinh Genève được ký kết, ông vào Sài Gòn (5/1955) và trở về Pháp giảng dạy – là Chủ nhiệm Bộ môn Cơ thể học, Giải phẫu học người ở Rennes (1955–1963), Paris (1967-1973), là Hiệu trưởng Trường Đại học Abidjan, Trường École pratique des Hautes études (1966-1973), là giám đốc Viện Unité de formation et de recherche biomédicale des Saints-Pères của Trường Đại học René Descartes, Paris (1970-1979), là Chủ tịch Hiệp hội Société française d’histoire de la médecine“. Ông còn là Hội viên của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp và Viện Cơ thể học. Ông đã viết rất nhiều sách về đất nước và con người Việt Nam.

     Sau khi nghỉ hưu, ông làm việc tại Bệnh viện Cochin và tiếp tục nghiên cứu, viết sách, hướng dẫn sinh viên tốt nghiệp. Ông đã mất (ngày 28/4/1983) do tai nạn giao thông. Ông là một tấm gương – cuộc đời và sự nghiệp – cho các thầy thuốc Việt Nam.

MỜI XEM CHI TIẾTPierre Huard

2Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp (École française d’Extrême-Orient – EFEO) là một tổ chức khoa học, văn hóa và nghề nghiệp công lập của Pháp – chuyên nghiên cứu về các nền văn minh của Châu Á. EFEO là một phần của Mạng lưới các trường Pháp ở nước ngoài.

     EFEO được thành lập vào ngày 15/12/1898 tại Sài Gòn bởi Paul Doumer với tên gọi “Phái đoàn khảo cổ thường trực ở Đông Dương”. EFEO – có tên từ năm 1931 – đã trở thành một cơ sở dân sự trực thuộc Bộ Nghiên cứu Pháp (theo theo Sắc lệnh của Tổng thống Paul Doumerngày 20/1/1900) với nhiệm vụ nghiên cứu ở cấp cao và đào tạo các nhà khoa học xã hội và nhân sự để phục vụ cho các tiểu lục địa Ấn Độ, Đông Nam Á, Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, …). Các công trình nghiên cứu của Trường luôn được liên kết lịch sử với khảo cổ học, lịch sử với ngôn ngữ học Châu Á và về sau được mở rộng ra lĩnh vực dân tộc học.

3Hiểu biết về Việt Nam /Connaissance du Vietnam – Tác giả: PIERRE HUARD, Uỷ viên danh dự Trường Viễn đông Bác cổ Pháp & MAURICE DURAND, Uỷ viên Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (École Francaise d’Extrême Orient), NXB Khoa học Hà Nội, 1993. Người dịch: ĐỖ TRỌNG QUANG.

4[216] : trong mốc vuông là số trang ở sách gốc được trích.

5RENÉ MERCIER (8/11/1886, Paris – 1974, Sables-d’Olonne /Vendée) là một nghệ nhân khắc tiền, sưu tầm tiền xu và tạo tác kỷ niệm chương. Ông theo học ngành Khắc (1902-1906) và tốt nghiệp Trường Nghệ thuật và Công nghiệp Nội thất BoulleParis; đồng thời, ông học tại Trường Nghệ thuật Trang trí Quốc giaParis (1904-1907) và tại Nhạc viện Quốc gia Nghệ thuật và Thủ công (1906-1914). Ông rời Paris đến Hà Nội và dạy học tại Trường Nghệ thuật Ứng dụng Hà Nội (năm 1927); ông là một nghệ sĩ theo Chủ nghĩa khỏa thân. Ông là thành viên của Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO) và là nhà nghiên cứu về Đông Dương (1927-1946) với tư cách Chủ nhiệm của các công trình nghiên cứu tại EFEO (năm 1932). Ông trở thành Giám đốc Bảo tàng Maurice Long (Bảo tàng Dân tộc học, từ tháng 2/1934). Ông dạy điêu khắc tại Trường Mỹ thuật Hà Nội (1933-1946) và tham gia các cuộc khai quật khảo cổ (1934-1947).

6RUDOLF P. HOMMEL (1887-1950) là một nhà thám hiểm ở Trung Quốc.

7LƯƠNG THẾ VINH ( 梁 世 榮, 1/8/1441, làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, Trấn Sơn Nam /nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định – 2/10/1497) – tên hiệu là Thụy Hiên, là một nhà toán học, Phật học, và chính trị gia thời Lê sơ. Ông đỗ Trạng nguyên và Đệ nhất giáp Tiến sĩ đệ nhất danh khoa Quý Mùi (đời Lê Thánh Tông, năm 1463) và làm quan tại Viện Hàn Lâm triều đình. Ông còn là một trong 28 nhà thơ của Hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông lập năm 1495. Ông được Vua giao việc soạn thảo những văn thư ngoại giao với nhà Minh. Ông còn có những nghiên cứu về âm nhạc dân gian, hát chèo và được vua Lê Thánh Tông giao việc định chế cho các lễ nhạc của triều đình.

     Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng về khả năng học bài mau thuộc, nhanh hiểu và có khả năng sáng tạo trong các trò chơi (đá bóng, thả diều, câu cá, bẫy chim, …). Ông được xem là người đã chế ra bàn tính gẩy cho người Việt; bàn tính lúc đầu được làm bằng đất rồi bằng trúc, gỗ và được sơn màu khác nhau, đẹp và dễ tính, dễ nhớ. Ông còn được biết đến với nhiều tác phẩm thơ chữ Nôm song ông lại bị các bạn đồng nghiệp chê và không được ghi tên trong Văn miếu Khổng Tử.

MỜI XEM CHI TIẾTLương Thế Vinh.

8VŨ HỮU  (武 有, 1437, làng Mộ Trạch, tổng Thì Cử, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương /nay là làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương – 1530) là một nhà toán học đầu tiên của Việt Nam, là một danh thần dưới triều đại Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông. Ông đỗ Hoàng giáp (năm 1463). Ông làm quan dưới triều Hậu Lê với các chức như Khâm hình viện lang trung, Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lễ, …; ông được phong Thái bảo. Sau khi nghỉ hưu, ông vẫn được Vua tin dùng – với tước hiệu Tùng Dương hầu – sai mang cờ tiết đi phong vương cho Mạc Đăng Dung.

     Công trình toán học mà ông đã để lại cho hậu thế là quyển Lập Thành Toán Pháp ( 立 成 算 法). Sách này hướng dẫn cách đo và tính diện tích ruộng với cách tính bằng bàn tính, bằng phép cửu chương, cửu quy – đơn vị tính là mẫu, sào, thước (24 mét vuông) và tấc (1/10 thước); ngoài ra còn có một số bài tính đố có cho biết đáp số.

MỜI XEM CHI TIẾTVũ Hữu – Nhà toán học đầu tiên của Việt Nam.

9: Bàn tính là một công cụ tính toán được sử dụng chủ yếu ở châu Á để thực hiện các phép toán số học. Bàn tính có thể xuất hiện từ cuối triều nhà Nguyên – đầu triều nhà Minh (thế kỷ thứ 14). Bàn tính Trung Quốc được gọi là suapan; còn bàn tính Nhật Bản gọi là soroban (thế kỷ thứ 17) mà về hình thức của cả hai loại bàn tính là cơ bản giống nhau. Bàn tính có kích thước tiêu chuẩn và có 13 trục (có thể phát triển lên đến 21, 23, 27, thậm chí đến 31 trục – song luôn là con số trục lẻ) và 2 ngăn hạt: phần hạt ở phía trên chỉ có 1 hạt /mỗi trục và được gọi là “hạt trời” – mỗi hạt có giá trị 5; phần hạt ở phía dưới có 5 hạt /mỗi trục và được gọi là “hạt đất” – mỗi hạt có giá trị 1. Khi tính toán thì có thể chọn bất kỳ trục nào để làm trục đơn vị và các trục ở bên phải và bên trái của trục đơn vị sẽ tương ứng với các hàng số lẻ thập phân, hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn, … Ví dụ: khi muốn làm tính cộng 123 + 456 = 579 thì hãy thiết lập số 123 trên 3 trục của bàn tính từ trái sang phải; rồi cộng + 456 bằng cách thêm 4 hạt vào trục hàng trăm, thêm 5 (1 hạt trời) ở trục hàng chục và thêm 1 hạt trời 2 hạt đất ở trục hàng đơn vị; cuối cùng khi đọc các số hạt trên các trục thì sẽ có kết quả là 579. Tương tự! làm phép trừ 987 – 654 = 333 thì thiết lập số 987 trên 3 trục của bàn tính từ trái sang phải – bằng cách thêm 1 hạt trời 4 hạt đất ở trục hàng trăm, rồi thêm 1 hạt trời 3 hạt đất ở trục hàng chục và thêm 1 hạt trời 2 hạt đất ở trục hàng đơn vị; sau đó -125 bằng cách rút bớt 1 hạt ở trục hàng trăm, bớt 2 hạt ở cột hàng chục và bớt 5 hạt ở trục hàng đơn vị; kết quả đếm hạt cuối cùng sẽ là 333 ở các trục tương ứng.

10Vía, Van:  Theo Phật giáo thì “Hồn” là tầng nhận thức sâu lắng nhất ở tâm và ý thức của con người; Hồn còn có các tên gọi khác như “thức”, “nghiệp lực”, “tinh linh”. Hồn luôn tồn tại ngay cả khi cơ thể của con người đã chết về mặt sinh học, vật lý học.

     “Vía” hay “Phách” – hay còn gọi là Vía van – là một dạng tinh thần, ý thức – “na thức”, “thân trung ấm(bado) – thiên về thô và có phần nặng hơn. “Vía” do các giác quan đem đến và còn lắng đọng lại. Khác với hồn, vía chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn sau khi con người đã chết và sẽ tan biến dần.

MỜI XEM CHI TIẾTBa Hồn Bảy Vía.

THƯ MỤC :

1.  SILVESIRE. Notes pour servir à la recherche et au classement des monnaies et médailles d’Annam et de la Cochinchine française (Saigon, Imprimerie nationale, 1883).
2.  B. GLOVER. The plates of Chinese, Annamese, Japanese, Corean coins, of the coins used as amulets of the Chinese Government and private notes (Noronha and Co Hongkong. 1895).

3.  LEMIRE. Les arts et les cultes anciens et modernes de l’Indochine (Paris, Challamel). Conférence faite le 29 décembre à la Société française des Ingénieurs coloniaux.
4.  DÉSIRÉ LACROIX. Numismatique annamite, 1900.

5.  POUCHAT. L’industrie des Josticks au Tonkin, in Revue Indochinoise, 1910-1911.
6.  CONDIER. Sur l’art annamite, in Revue Indochinoise, 1912.

7.  MARCEL BERNANOSE. Les ouvriers d’art au Tonkin (La décoration du métal, Les bijoutiers), in Revue Indochinoise, n. s. 20. [247] juillet-décembre 1913. p. 279 à 290.
8.  BARBOTIN. L’industrie des pétards au Tonkin, in Bulletin économique dé l’Indochine, septembre-octobre 1913.

9.  ORBAND. Les bronzes d’art de Minh Mang, in BAVH, 1914.
10. CADIÈRE. L’art à Hué, in BAVH. 1919.
11. BERNANOSE. Les arts décoratifs au Tonkin, Paris, 1922.

12. GRAVELLE. L’art annamite, in BAVH, 1925.
13. ALBERT DURIER. Décoration annamite, Paris, 1926.
14. BEAUCARNOT (Claude). Éléments de technologie céramique à l’usage des sections de céramique des écoles d’ art en Indochine, Hanoi, s. d. 1930.

15. GILBERT. Industrie de l’Annum, in BAVH, 1931.
16. LEMASSON. Renseignements sur les méthodes de pisciculture dans le delta tonkinois, 1933. p. 707.
17. GOURDON. L’art de l’Annam. Paris, 1933.

18. TRẦN TRỌNG KHÔI. Roues élévatoires du Quảng Nam et norias a palettes du Thừa Thiên, 1935. p. 349.
19.  GUILLEMINET. Norias du Quảng Ngãi, in BAVH, 1926.
20. GUILLEMINET. Préparations à base de graines de soja dans l’alimentation des Annamites, in Bullletin économique de l’Indochine, 1935.

21. FEUNTEUN. Incubation artificielle des oeufs de cane en Cochinchine, in Bulletin économique de l’Indochine, 1935. p. 231.
22.  RUDOLF P. HOMMEL. China at Work, 1937.
23.  MERCIER. Outillage artisanal annamite, in BEFEO, 1937.

24.  P. Y. LAUBIE. Imagerie populaire au Tonkin, in BAVH, 1931.
25.  GOUROU. L’industrie villageoise dans le delta du Tonkin, Congrès International de Géographie, 1938.
26.  GOUROU. La badiane au Tonkin (communiqué des services agricoles du Tonkin), 1938, p. 966.

27.  Ch. CREVOST. Conversations sur l’artisanat au Tonkin, 1939.
28.  CORAL REMUSAT. L’art annamite, Ans musulmans, in Extrême-Orient, Paris, 1939.

GHI CHÚ :
◊  Các chữ nghiêng, chữ in, chữ đậm, chú giải, hình ảnh minh hoạ và một số ‘hiệu đính nhẹ’ do BAN TU THƯ vietnamhoc.net thiết lập.

MỜI XEM THÊM :
◊  Hiểu biết về Việt Nam – Thợ làm đồ kim khí
◊  Connaisance du Viet Nam – Les artisans – Version original – fr.VersiGoo
◊  Connaisance du Viet Nam – All VersiGoo (Japanese, Russian, Rumanian, Spanish, Korean, …

BAN TU THƯ
5 /2022

(Visited 60 times, 1 visits today)