
Kể từ khi tờ Gia Định báo (hình 1) ra đời đầu tiên, tiếp theo đó là những tờ báo bằng chữ Quốc ngữ cũng lần lượt xuất hiện trên diễn đàn báo chí. Một số tạp chí tiếp sau đó cũng lần lượt được ấn hành như: Tạp chí Đông Dương (1913-1918), An Nam Tạp chí (1926-1930), Tuần báo Nam Kỳ (hình 2) (ra ngày thứ Năm hàng tuần), Thần Chung (hình 3) (1929-1930), … Mặc dù ngày nay chúng ta chưa có trong tay ấn bản số một của tờ Gia Định báo với giá đặt hàng là 20.000 đô la Mỹ nếu ai sưu tầm được. Tuy nhiên, các nhà sưu tập cho rằng nó ra đời vào ngày 15/4/1865 – mà giới văn hóa Việt Nam dựa vào đó để xác định như là ngày sinh của lịch sử báo chí Việt Nam mà không muốn truy vấn thêm để có thể làm đau lòng trái tim lịch sử. Công chúng Việt Nam – từ đó – đã bắt đầu tiếp nhận một nguồn tư liệu quý giá bằng văn xuôi chữ Quốc ngữ (chữ La-tinh) – một sản phẩm đặc trưng không chỉ riêng ở vùng đất Nam kỳ mà còn chung của cả nước – Trong số nguồn sử liệu bằng văn xuôi này các thể loại sáng tác nở rộ – trong đó có loại hình du kí. Từ đây các nhà văn – nếu không muốn gọi là những nhà sử ký ra đời – trong đó có Pétrus Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh… xuất hiện trên diễn đàn báo chí.
Nhưng dù lời văn của các tác giả đã rất khéo léo để lại một nguồn tư liệu quý giá về con người, địa lý, xã hội, nhân văn… Không chỉ những nhà du kí học Việt Nam – như đã kể tên trên – mà còn những nhà du kí học nước ngoài xuất hiện – như John White – từng đến Đông Dương ông đã để lại tập hồi ký: “A voyage to Cochin China” (Cuộc du hành sang Nam Kỳ) năm 1824.

Tác giả đã bộc lộ cảm nhận tốt đẹp về phong tục, tính tình của cư dân tại vùng đất mà ông đặt chân đến bằng lời lẽ qua ngòi bút và trí nhớ làm phương tiện. Từ đó, chúng ta cũng chỉ thỏa mãn thị giác qua chữ viết La tinh bằng chiếc máy in – người thợ săn lịch sử – với kỹ thuật ấn loát để mô tả chân dung con người Nam kỳ. Nhưng những cảm xúc ấy phải chờ đợi không lâu sau đó – khi chiếc máy ảnh ra đời – thì những hình ảnh sơ khai bằng màu sắc (đen trắng) đã thay chữ viết. Đó là nguồn sử liệu chân chính không tô vẽ thêm và cũng không hề cắt giảm bớt theo lời văn cảm xúc riêng tư của nhà văn qua chiếc máy in – người thợ săn lịch sử thời kỳ cận hiện đại – Nay với người thợ săn mới, cái máy ảnh đã cho ta nguồn lịch sử “như nó là nó”. Đó là sản phẩm ngay thật của vận hành bằng nhiều phương pháp khoa học (cơ học, máy móc, hóa học (thuốc ảnh), vật lý học). Máy chụp ảnh không như ngòi bút vì tác giả không thể thay đổi nó để bắt nó phải thể hiện theo cảm xúc riêng tư. Cái cảm xúc khi vui, buồn, khi hời hợt, khi nóng nảy trước cảnh tượng như bắt ngòi bút phải sửa chửa, trau chuốt câu văn chương được bóng bẩy, lãng mạn. Cái máy chụp ảnh – như người thợ săn cơ hội, như người thợ rừng chỉ bóp cò súng để đánh bắt “con mồi” ngay tại chỗ.

Nếu tác phẩm “Du ký Nam kỳ” được máy ảnh ghi nhận thì những con người Nam kỳ với vóc dáng, cử chỉ qua sinh hoạt cộng đồng trong những buổi đầu sơ khai lập nghiệp – là những hình ảnh vô giá cho các thế hệ sau này để tìm về quá trình tiến hóa của dân tộc Việt Nam. Vậy máy chụp ảnh là công cụ hiện đại của thế kỷ 21 – Công cụ này đã bắt đầu từ đâu?.
Trong lịch sử văn minh nhân loại – loại hình nghệ thuật đã sớm phát triển từ hàng nghìn năm trước – như là những bộ thiên niên sử – để lại những dấu vết hình ảnh từ thời cổ sơ, khi con người vừa thoát ra lớp vỏ loài vượn để đi thẳng thành “thằng ngợm” bằng 2 chân. Nhưng càng về sau loài người đã biết sử dụng các công cụ kim loại để chế tác. Lịch sử loài người đã tiến thêm một bước về kỹ thuật – trong đó nghệ thuật tạo hình có hội họa, điêu khắc… đã góp phần lớn để mô tả bước tiến của nền văn minh nhân loại nói trên. Riêng đối với hội họa, các họa sĩ đông tây đã dùng ngòi bút để phác họa chân dung thiên nhiên với cây cảnh và con người trong cuộc sống một cách công phu.


Nhưng từ khi máy chụp hình (máy ảnh) ra đời vào năm 1826 do Joseph Nicephore Niepce (hình) phát minh đã ghi chép thế giới loài người trong nháy mắt như một phát súng săn – mà không cần phải tốn nhiều công sức như các họa sĩ dùng thủ công trước đây. Loài người đã có một di sản bằng hình ảnh để chiêm ngưỡng. Riêng tại xứ Đông Dương này – trong đó có Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ – đã thừa hưởng những bộ ảnh chụp quý báu từ đầu thế kỷ 20. Những nhà nhiếp ảnh lịch sử ấy là ai? Tập sách này bắt đầu kê khai tên tuổi của những nhà đóng góp cho lịch sử thế giới ấy. Họ không phải là những nhà văn chương mà là những nhà chụp ảnh vào một thời khắc nhất định , một vùng không gian nhất định đã góp phần “ghi chép lịch sử” nhân loại.Vậy họ là ai?
Trước hết ta phải kể đến Emile Gsell là một nhà thám hiểm đem theo cái máy chụp ảnh. Ông có mặt tại Đông Dương vào những năm 1860 – 1870 khi mới đặt chân đến Nam kỳ Aurélien Pestel để lại những bức ảnh về các kiến trúc, phong cảnh, nhân vật… cuối thế kỷ 19. Vào những năm đầu thế kỷ 20 – ông Nguyễn Khánh Ký (tức Khánh Ký) lại quan tâm đến các nhân vật chính trị. Tư liệu này giúp cho những nhà nghiên cứu có thể sưu tập được chân dung của những nhân vật lịch sử cận hiện đại như Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh …


Vào thời điểm nghề chụp ảnh là một nghề mới của công nghệ hiện đại nên có thể kiếm sống được đàng hoàng. Cụ Phan Chu Trinh cũng có thời gian làm nghề rửa ảnh ở tiệm nhiếp ảnh của ông Khánh Ký, tại Paris – sau khi ra khỏi nhà tù ở nhà ngục Santé năm 1915.
Ông Pun Lun (Tân Luân) (hình) người Hồng Kông đầu tiên đặt văn phòng chụp ảnh tại Sài Gòn trong nhiều năm dài từ 1860 -1880
Trên đây là nét phác họa sơ bộ chân dung của những nhà nhiếp ảnh – nhưng chưa phải là tất cả – để lưu giữ hình ảnh Đông Dương mà thời gian đã làm tan biến những vất chân lịch sử “đã hóa đá”.

——-
(*) Hình 1, hình 2, hình 3, hình 4, hình 5, hình 6: Ảnh sưu tập của PGS.TS Nguyễn Mạnh Hùng
Nguyễn Mạnh Hùng