TRẦN VĂN TUNG
Nguyên bản: Tiếng Pháp
Bản dịch: VersiGoo
Mỹ thuật Việt Nam tuy chịu ảnh hưởng của mỹ thuật Trung Hoa nhưng lại có những nét độc đáo riêng. Để hiểu được người dân Việt Nam tôn thờ nghệ thuật đến mức nào, bạn phải đến thăm các đền, chùa, cung điện, dinh thự. Càng về các vùng quê, chúng tôi càng thấy xu hướng này tự khẳng định mình và ngày càng phát triển. Thật vậy, một số ngôi chùa, nằm trong bụi rậm hoặc trên núi, là những kiệt tác thực sự của nghệ thuật chạm khắc gỗ.
Trong khi ở Âu Mỹ, những công trình kiến trúc đẹp nhất, những cung điện xa hoa nhất được xây bằng đá, thép, xi măng, thì ở Việt Nam, những ngôi chùa đẹp nhất được xây dựng bằng gỗ. Loại gỗ được sử dụng nhiều nhất là lim, có độ bóng đặc trưng. Tuy nhiên, những loại gỗ này có thể được cắt, xẻ và điêu khắc. Vì vậy, các cột, các khung, cửa ra vào, vách ngăn, nắp, các góc của cửa ra vào và cửa sổ hoàn toàn được điêu khắc. Các họa tiết trang trí được sử dụng nhiều nhất là: rồng, lân, rùa, phượng. Rồng, một loài động vật tuyệt vời sinh sống, theo truyền thuyết Nước Trời, là ‘cha đẻ sáng tạo’ của Việt Nam. Nó cũng là biểu tượng của Trí tuệ và Quyền lực. Kỳ lân, rùa, phượng hoàng, những con vật biểu tượng, gợi lên ý niệm về sự trường thọ, thịnh vượng, hạnh phúc. Các mẫu trang trí tương tự cũng được tìm thấy trong tất cả các nghệ thuật khác, chẳng hạn như hội họa, thêu ren, kim hoàn. Bên cạnh những họa tiết cổ điển này, người nghệ sĩ còn lấy cảm hứng từ lịch sử, thiên nhiên và được hướng dẫn bởi trí tưởng tượng và sự kỳ ảo. Các tác phẩm chạm khắc gỗ thể hiện, ngoài những con vật biểu tượng này, cảnh lịch sử, hoa cúc, hoa cúc, hoa sen, cây thông, cây đầu tiên, cây liễu khóc, tre, sậy, cây sung, con cò, chim bồ câu én, chim sẻ, chim công, cá chép, núi, đồi, sông, thuyền và đôi khi cũng có thiên thần, tiên nữ, nữ thần.
Không chỉ có các công trình chùa chiền, đền thờ mà còn có cả những ngôi nhà ở. Một số ít trong số đó, không có tác phẩm điêu khắc trên khung, vách ngăn, cửa sổ hoặc ở thủ đô của họ. Trên thực tế, mỗi người nông dân đồng thời là một thợ mộc giỏi và một nhà điêu khắc khéo léo. Thường thì anh ấy xây nhà cho riêng mình. Vì vậy, việc anh ấy dốc hết sức lực và tài năng của mình để làm cho cô ấy xinh đẹp và vừa ý, là điều đương nhiên.
Bên cạnh những tác phẩm điêu khắc khổng lồ là chùa, đền và nhà ở, các nghệ nhân Việt Nam thể hiện tài năng kỳ diệu trong việc chế tạo các tấm, song, tủ, bàn đôn, ghế bành, rất được săn đón. Họ hầu như không bao giờ sử dụng máy móc và làm việc với sự khéo léo đáng nể.
Tác phẩm điêu khắc bằng đồng cũng không bị bỏ qua. Để bị thuyết phục về điều này, chỉ cần vào bên trong chùa, đền, cung điện, phòng chờ của các học giả và quan lại. Bên cạnh các bức tượng có nhiều đồ vật rất gây tò mò như lư hương, chân đèn, tượng hình chim khổng tước (hạc), tám linh khí (dơi), rồng, phượng, rùa, hổ, voi, ngựa.
Nghề kim hoàn cũng được vinh danh tại Việt Nam. Vàng bạc trang sức nhan nhản ở các cửa hàng ở Sài Gòn hay Chợ Lớn. Người ta thấy ở đó lộ ra, ở những mặt tiền phong phú, các đồ vật đủ loại được trang trí bằng những chạm khắc tinh xảo nhất. Các hoa văn trang trí thường giống nhau: rồng, phượng, rùa, chim, bướm, hoa.
Khảm xà cừ chắc chắn là nghệ thuật nguyên bản nhất của Việt Nam. Đó là việc áp dụng các bức phù điêu bằng ngọc xà cừ trên các đồ vật bằng gỗ để làm các bức vẽ, tranh vẽ. Vì vậy, những chiếc rương, những chiếc khay khảm xà cừ tạo thành những món đồ xa xỉ thực sự rất được coi trọng. Việc khảm xà cừ được thực hiện trên các loại gỗ quý như gu, mun (gỗ mun).
Thêu, được thực hành phổ biến ở Việt Nam, là một nghệ thuật và một mỹ nghệ tuyệt vời. Nó được thực hiện bằng tay bởi những người thợ thêu chuyên nghiệp. Những bức tranh thêu trên lụa hoặc nhung này biểu trưng cho phong cảnh, khung cảnh lịch sử, các loài chim tượng trưng, động vật thần tiên, chữ Hán, hoặc thậm chí là chân dung của các vĩ nhân của ngày hôm qua và ngày nay. Đó là một công việc đòi hỏi tài năng, trí tưởng tượng và sự kiên nhẫn.
Hội họa chưa bao giờ được truyền thống coi là nghệ thuật chính. Chắc chắn có một số tác phẩm hoàn hảo trong quá khứ, nhưng nguồn cảm hứng và kỹ thuật của chúng được vay mượn từ Trung Quốc; bức tranh không thể rũ bỏ sự ảnh hưởng này. Chẳng hạn vào thế kỷ thứ 16, dưới thời Lê, các họa sĩ vẽ phong cảnh rất xuất sắc. Các tác phẩm của họ thể hiện sự hài hòa về màu sắc, sức sống và nét vẽ tinh tế ngang ngửa với các bức tranh Trung Quốc. Tuy nhiên, không có trường hội họa quốc gia nào.
Mãi đến thế kỷ XX, nghệ thuật này mới giành được quyền riêng của mình. Dưới ảnh hưởng của phương Tây, hội họa Việt Nam đang đi theo những hướng mới. Các trường học được thành lập. Các họa sĩ triển lãm ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Họ bị phân chia giữa “những người theo chủ nghĩa truyền thống”, những người không thừa nhận việc sử dụng các kỹ thuật Châu Âu và “hiện đại”, những người gọi tên của CÉZANNE và GAUGUIN, hoặc theo RENOIR và BONNARD, chẳng hạn như LÊ-PHỞ và VŨ-CAO-ĐÀM. LÊ-BÁ-ĐĂNG trong tất cả các họa sĩ Việt Nam ngày nay là người sáng chói nhất về tài năng và giàu tính độc đáo nhất.
Tác phẩm sơn mài Việt Nam được coi là thú vị nhất ở Viễn Đông. Trong khi trường phái Nhật Bản chỉ chạm khắc trên bề mặt sơn mài, các nghệ nhân Việt Nam, đặc biệt là LÊ-PHỔ và NGUYỄN-GIA-TRÍ, sử dụng phương pháp khảm sâu bằng vàng, bạc và vàng của riêng họ – ngà voi.
Cùng với hội họa và sơn mài, điêu khắc, được định hướng bởi phương Tây, đang phát triển và hiện đại hóa. Các ngành nghệ thuật khác như nhiếp ảnh và kiến trúc đang trên đà phát triển tại Việt Nam.
Nhìn chung, nghệ thuật Việt Nam, tuy sở hữu một cá tính mạnh mẽ, nhưng trong nửa thế kỷ qua, nghệ thuật châu Á đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nghệ thuật châu Âu. Nhưng không bao giờ đánh mất những đặc tính cơ bản, những dấu ấn cơ bản của nó, nó không ngừng làm giàu cho chính nó, để củng cố chính nó và để trẻ hóa chính nó.
GHI CHÚ :
◊ Nguồn: Vietnam, Les Hommes d’au delà du Sud, NXB. À la Baconnière & Neuchâtel, Thụy Sĩ, 1957.
◊ Chữ nghiêng, chữ màu và hình ảnh sêpia hóa do Ban Tu Thư – thanhdiavietnamhoc.com thiết lập.
BAN TU THƯ
09 /2020