THỤY KHÊ1
Những bài tranh luận về Thơ Con cóc trên Báo Văn Học giữa ĐỖ MINH TUẤN và NGUYỄN HƯNG QUỐC cho thấy hiện nay đang manh nha khuynh hướng đối thoại giữa người viết trong và ngoài nước. Chưa bàn đến nội dung các cuộc trao đổi, chúng ta cũng thấy là vấn đề đối thoại văn học nên tiếp tục mở rộng.
Trong tinh thần ấy, tôi có bài góp ý này về một số vấn đề liên quan đến khế ước văn hóa (chữ của ĐỖ MINH TUẤN), giao lưu văn hóa, phê bình văn học, quan điểm cũ, mới, với mục đích giúp độc giả thấy rõ hơn bản chất của công việc phê bình và những đóng góp của nó trong đời sống văn học.
I. Vấn đề khế ước văn hóa, giao lưu văn hóa
Cuộc tranh luận về Thơ Con cóc nếu xẩy ra trong điều kiện lập luận bình thường thì có thể rất hào hứng cho hai tác giả và bổ ích cho người đọc. NGUYỄN HƯNG QUỐC cho rằng Thơ Con cóc hay, đó là quyền thẩm định tự do của anh. Độc giả chờ đợi một lập luận tân kỳ cũng như họ có quyền đánh giá lập luận của NGUYỄN HƯNG QUỐC. Nhà phê bình ĐỖ MINH TUẤN có quyền phê bình nhà phê bình NGUYỄN HƯNG QUỐC, và NGUYỄN HƯNG QUỐC trả lời v.v… Đó là tiến trình bình thường của các cuộc tranh luận văn học.
Nhưng ở đây có một cái gì đó không bình thường khiến mọi người chú ý, không phải trên khía cạnh lý thú của lý luận văn học, mà ở những điều, những chữ quá tải đã được đôi bên viết ra. ĐỖ MINH TUẤN dùng những chữ rất nặng cho một cuộc tranh luận văn học và chính ở chỗ đó mà người đọc bị chệch hướng, không thấy rõ mục đích “phê bình một nhà phê bình” của ĐỖ MINH TUẤN. Anh viết: “Vậy cãi lại tổ tiên, đem lý trí và học vấn cãi lại vô thức cộng đồng chỉ là sự xâm lăng về văn hóa, đem chuẩn mực văn hóa của cộng đồng này áp đặt cộng đồng khác vì mỗi nền văn hóa là một thực thể tinh thần có diện mạo riêng, có khóa mã riêng, có độ bảo thủ riêng. Sự áp đặt đó, dù có thành công về phương diện lý luận thì vẫn luôn thất bại trong thực tế. Từ góc độ nhân chủng học, quốc tế học, từ góc nhìn của mẫu quốc, ta có thể chứng minh rằng những kẻ bán nước trước đây là tiến bộ cao cả, có công. […]” (ĐỖ MINH TUẤN, Khế Ước Văn Hóa Trong Bài Thơ Con Cóc, Văn Học số 134, tháng 6/1997, trang 22)
Có cần mang cả những thứ nặng ký như: nhân chủng học, quốc tế học, chuẩn mực văn hóa, vô thức cộng đồng, xâm lăng văn hóa, mẫu quốc, kẻ bán nước, v.v… ra để bàn về … Thơ Con cóc hay không? Chính những chữ quá tải này, không những khiến cho người đọc hồ nghi thiện chí (muốn phê bình) của ĐỖ MINH TUẤN mà còn triệt tiêu tính chất thuyết phục trong lập luận của anh vì bản chất của chúng (một vài chữ) chống lại hai đối tượng văn hóa và phê bình mà ĐỖ MINH TUẤN muốn đề cập.
Thật vậy, phải nói ngay rằng nếu chúng ta không được quyền “cãi lại tổ tiên” thì làm gì có văn hóa để mà bàn cãi hôm nay: Tổ tiên ta ăn lông ở lỗ, nếu chúng ta cứ ngoan ngoãn vâng lời, rập theo khóa mã của tổ tiên thì ngày nay chúng ta vẫn còn là người vượn, người khỉ, lấy đâu chữ viết, lấy đâu văn chương mà đọc, mà bàn?
Văn hóa là hậu quả của tính chất biến thiên và sinh động nơi con người: Vượt hoàn cảnh lịch sử để tồn tại. Và trong tiến trình cải tiến và biến đổi không ngừng ấy, họ để lại những thành quả gọi là văn hóa. Ăn sống nuốt tươi là vô văn hóa. Ăn cơm là có văn hóa. Vậy muốn có văn hóa phải “cãi lại tổ tiên“.
Bản chất phê bình cũng là cãi lại, xét lại. Không những chỉ ở mức độ cãi lại tổ tiên mà còn cãi lại, đặt vấn đề với tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Phê bình văn học là cãi lại, đặt lại vấn đề với văn học, về chuyện viết thế nào? Về bản thân chữ nghĩa. Chữ nghĩa hôm qua và chữ nghĩa hôm nay. Và nếu muốn đặt vấn đề mà không đem “lý trí và học vấn” ra thì dùng cái gì để làm hành trang suy tưởng? Nếu anh không dám “cãi lại tổ tiên”, nếu anh chỉ biết gật đầu chấp nhận những gì người đi trước để lại trong tất cả mọi địa hạt văn hóa, chính trị, khoa học, xã hội, tư tưởng mà không đặt lại vấn đề thì vô tình hay cố ý anh đã phủ nhận nguyên tắc phê bình và lý do tồn tại của văn hóa.
Điều mâu thuẫn nữa là khi anh nói đến sự “xâm lăng văn hóa, đem chuẩn mực văn hóa cộng đồng này áp đặt cho cộng đồng khác” là chính ĐỖ MINH TUẤN muốn khép cửa, tức là đặt lại vấn đề đã có từ xưa: vấn đề giao lưu văn hóa. Sự phát biểu của ĐỖ MINH TUẤN khiến người ta nhớ đến các quan điểm dân tộc cực đoan, cho rằng: mỗi nền văn hóa, hoặc văn chương của mỗi dân tộc đều riêng rẽ, không thể pha trộn. Nếu đem pha trộn thì sẽ lai căng, mất gốc, sẽ mất bản sắc dân tộc … Quan điểm này được một số người dùng làm điểm tựa để đưa đến chính sách bài ngoại, ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Thực tế đã không xẩy ra như vậy, tính chất giao lưu văn hóa nằm trong bản chất con người. Thời kỳ du mục, những bộ lạc đã di chuyển, giao lưu, đã sống lẫn lộn với nhau. Tất cả các nền văn hóa đều có tính lai trong cơ thể, nhưng chúng vẫn khác nhau vì những nét đặc thù. Những nét đặc thù này do hoàn cảnh tạo nên (hoàn cảnh hiểu theo nghĩa situation của Sartre: Con người tác động vào môi trường mà sinh ra hoàn cảnh), hoàn cảnh địa lý, hoàn cảnh ngôn ngữ, hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh nghèo đói, … Mỗi hoàn cảnh tạo ra những vị thế khác nhau và chính những vị thế ấy cấu tạo nên sự khác biệt giữa các nền văn hóa.
Hai nền văn hóa cạnh nhau có thể ngấm vào nhau: Hoa-Việt, Hoa-Nhật, … và đem lại những nguồn sinh lực mới cho những hoàn cảnh sống đã cũ: Nếu không có hiện tượng người Việt di dân ra nước ngoài thì làm gì có văn chương Việt Nam hải ngoại? Thì chắc gì người Pháp, người Mỹ ngày nay đã bán nem (chả giò), gừng, nước mắm,bún, miến, bánh tráng, bánh phở … ở các siêu thị của họ? Hiện tượng thẩm thấu văn hóa là một hiện tượng tự nhiên. Khi có sự tiếp xúc giữa hai dân tộc hoặc hai trào lưu tư tưởng, thường nẩy sinh những trào lưu văn hóa mới: Có thể nói hội họa ấn tượng nẩy sinh từ sự tiếp xúc của Tây phương với thi ca Trung Quốc và hội họa Nhật Bản; hoặc nếu PICASSO không gặp điêu khắc Phi Châu thì chắc gì ông đã mở đường cho hội họa lập thể?
Nếu không có “một ngàn năm đô hộ giặc Tàu” thì chưa chắc văn chương cổ điển Việt Nam đã có hình thái như vậy. Và nếu không có “một trăm năm đô hộ giặc Tây” thì nền văn chương quốc ngữ của chúng ta có như ngày nay hay không? Mỗi dân tộc (Tàu, Tây, Việt Nam, …) đều có hai khía cạnh: giặc và người. Chúng ta tiếp nhận khía cạnh “người” của họ, tức là khía cạnh văn hóa để bổ xung cho đời sống văn hóa của chúng ta, và chống lại khía cạnh “giặc“, tức là khía cạnh thực dân, xâm lăng, gây chiến tranh, chiếm hữu lãnh thổ người khác: Khía cạnh vô văn hóa của họ. Một nền văn hóa mạnh, như văn hóa Hán, có khả năng Hán hóa quân “xâm lăng” Mông Cổ, biến “giặc” thành “người“.
Vậy khi nói đến văn hóa thì khó có thể dùng những chữ “xâm lăng văn hóa“, “cái bẫy văn hóa“… Bới văn hóa biểu dương khía cạnh đẹp của con người. Văn hóa nâng cao trình độ con người. Bản chất văn hóa là giao lưu, chia sẻ, là nguồn cảm thông chung của nhân loại. Giao lưu văn hóa không thể đưa đến sự “diệt chủng văn hóa“, mà ngược lại, đóng cửa văn hóa, chỉ đọc mình, chỉ tôn vinh dân tộc mình mới đáng ngại, có thể dẫn đến nguy cơ diệt chủng văn hóa.
Tất nhiên người đọc cũng không nghĩ là ĐỖ MINH TUẤN chủ trương “đóng cửa văn hóa“, nhưng anh chỉ sa đà trong việc sử dụng từ ngữ, cũng như anh đưa ra những xác quyết sai lầm về J. P. SARTRE, CAMUS, BARTHES … mà những ai biết rõ các tác giả này đều phải ngạc nhiên.
Nếu sáng tác đòi hỏi sự thực thì phê bình đòi hỏi sự chính xác. Và đó là lý do tồn tại của một ngòi bút phê bình.
II. Thơ Con cóc
Khi NGUYỄN HƯNG QUỐC thách ĐỖ MINH TUẤN phải chứng minh được rằng Thơ Con cóc không phải là thơ, ĐỖ MINH TUẤN đã vội lo “đây là một thách thức triết học nghiêm túc, nhưng lại là một vấn đề ngụy tạo“. Những lo lắng của ĐỖ MINH TUẤN thật sự không cần thiết vì ở đây cũng chẳng có vấn đề triết lý triết học gì cả. Chỉ có một lẽ dễ hiểu là xưa nay chưa ai định nghĩa được một cách chính xác Thơ là gì? Con cóc có nhẩy lên hỏi ông trời thì trời cũng chịu. Cũng như chưa ai định nghĩa được tình yêu, Thượng Đế, v.v… và người ta cũng không hi vọng NGUYỄN HƯNG QUỐC hay ĐỖ MINH TUẤN sẽ là những người đầu tiên định nghĩa được thi ca trên trái đất này.
Vậy Thơ Con cóc, bảo nó là thơ cũng được. Mà bảo không phải là thơ cũng xong.
Nhưng người ta có thể giải thích được Thơ Con cóc hay hoặc dở dựa trên những tiêu chuẩn nghệ thuật, hoặc những phương pháp phân tích ngữ học. Điều cốt yếu là sự giải thích ấy có tính thuyết phục hay không, mà thôi.
Thơ Con cóc vốn mang tiếng là dở. Tại sao? Tại vì những câu: Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi không mang một kiến trúc nghệ thuật nào cả: Vắng hình ảnh, không vang âm, không có khả năng biểu cảm, không có tính chất phức âm, đa nghĩa.
Điểm thứ nhì, nó cũng không “miêu tả” cho biết con cóc như thế nào: sần sùi hay nhẵn nhụi, mắt lồi hay mắt lõm, cẳng nghêu, chân trạc, chân kiềng? v.v… cho nên nó chưa thành văn.
Vậy chỉ còn mục đích thông tin: Nó cho biết có con cóc từ trong hang nhảy ra. Nhưng đây cũng lại là một thông tin dài dòng và không cần thiết về một con cóc đang nhảy, rồi nghỉ, rồi lại nhảy … Một thông tin như vậy chỉ cần viết ngắn gọn: “Con cóc nhẩy từ hang ra ngoài” là đủ, vì phần còn lại “con cóc ngồi đó, con cóc nhẩy đi” là một thông tin thừa, vì ai cũng biết rõ là cóc không biết đi, không biết chạy, chỉ nhẩy cẫng, vì thế mà người ta gọi là nhẩy cóc. Thông tin này giống kiểu “nàng là phận gái ta là phận trai” của NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU hoặc “15 phút trước khi chết, ông ấy còn sống” mà người Pháp gọi là vérité de La Palice: một thông tin ngây ngô vì ai cũng biết cả rồi.
Bây giờ NGUYỄN HƯNG QUỐC muốn chứng minh điều ngược lại: Thơ Con cóc hay. Chúng ta thử khảo sát quan điểm của anh :
… còn tiếp ở Phần 2 …
MỜI XEM:
◊ Nhân cuộc tranh luận về THƠ CON CÓC góp ý về một số vấn đề trong PHÊ BÌNH VĂN HỌC – Phần 2.
CHÚ THÍCH:
1: THỤY KHUÊ: Tên thật là VŨ THỊ TUỆ, sinh năm1944 tại Nam Ðịnh, viết tiểu luận văn học từ 1985.
Ðã in bài trên các báo Tự Do (Pháp & Bỉ), Văn Học (Hoa Kỳ), Thông Luận (Pháp), Thế Kỷ 21 (Hoa Kỳ), Người Việt (Hoa Kỳ), Diễn Ðàn (Pháp), Hợp Lưu (Hoa Kỳ), Phụ Nữ Diễn Ðàn (Hoa Kỳ)… Cộng tác với Dài RFI (Radio France Internationale) trong Chương trình Văn Học Nghệ Thuật (1990-2009) MỜI XEM chi tiết đầy đủ: THỤY KHUÊ.
2: …đang cập nhât…
BAN TU THƯ
09 /2020