GS. HÀ VĂN TẤN 1
Các nhà Nho đã bắt đầu có sự phê phán Phật giáo từ đời Trần 2, đặc biệt là từ thế kỷ 14. Với sự bắt đầu của triều đại Lê 3, Nho giáo 4 trở thành độc tôn. Từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của tầng lớp thống trị. Nho giáo được dùng làm các nguyên lý chỉ đạo việc xây dựng các thiết chế chính trị và xã hội.
Nhưng thứ Nho giáo đã ảnh hưởng tới vua quan nhà Lê 3 và tầng lớp sĩ phu Việt Nam thế kỷ 15 là Tống Nho (Nho giáo đời Tống), mà người ta thường gọi là Tân Nho, đặc biệt là các lý thuyết của Trình Hạo, Trình Di 5 và Chu Hy 6. Các nhà triết học Tống Nho chú ý đến các phạm trù bản thể luận như Lý (tinh thần hay quy luật) và Khí (vật chất), và dùng chúng để giải thích các quan hệ xã hội hay đạo đức. Họ bảo vệ các trật tự xã hội bằng cách coi đó là “Lý“ hay “Mệnh trời“.
Các nhà Nho Việt Nam thế kỷ 15, trong đó có Ngô Sĩ Liên7, tác giả Đại Việt sử ký toàn thư đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của học thuyết Tân Nho. Vua Lê Thánh Tông8 cũng đã được một nhà nho khác, Đỗ Nhuận9, ca tụng là hiểu biết sâu sắc về lý thuyết “Lý“.
Khổng Tử 10 và 10 người học trò 11 của ông không những được tế ở Văn Miếu 12 tại Thăng Long 13, mà từ năm 1465, còn được tế ở các trấn , lộ , vào mùa xuân và mùa thu.
Ảnh hưởng của Nho giáo biểu hiện rõ trong giáo dục và thi cữ. Từ năm 1426, khi quân Minh14 còn bị vây ở Việt Nam, Lê Lợi 15 đã cho mở kỳ thi ngay tại quân doanh Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội) và đề thi là “Thư dụ hàng quân Minh ở Đồng Quan”. Lần đó, có 30 người đỗ.
Năm 1428, ngay sau khi lên ngôi, Lê Lợi15 đã ra lệnh dựng các trường học trong cả nước. Quốc tử giám12 là cơ quan giáo dục cao nhất, đặt ở kinh đô. Năm 1429, đã tổ chức một khoa thi. Nhưng phải đến đời vua Lê Thái Tông 16, thể lệ thi cử mới được quy định chặt chẽ. Từ đây, 6 năm tổ chức một lần thi tuyển. Năm trước thi hương ở các trấn, chọn Công sĩ (cử nhân), năm sau thi hội ở kinh đô, chọn Tiến sĩ, và sau đó là thi đình, nhà vua tự ra đề thi, chọn 3 người đỗ cao nhất trong hàng tiến sĩ, gọi là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.
Vua Lê Thái Tông16 định lệ 3 năm một lần thi và quy định chi tiết hơn về chế độ thi cử. Để đề cao tầng lớp nho sĩ, nhà Lê3 đặt ra lễ xướng danh (lễ đọc tên những người đỗ trong kỳ thi), lễ vinh quy (lễ đón rước người đỗ tiến sĩ về quê hương của họ) và khắc tên người đỗ tiến sĩ vào bia đá đặt ở Văn Miếu17 tại Thăng Long18.
Nói chung, chế độ giáo dục và thi cử đời Lê có phần rộng rãi hơn trước.
Không những con em quý tộc quan lại, mà cả con em bình dân cũng được đi học và đi thi, không phân biệt sang hèn. Tuy vậy, nhà Lê3 vẫn đặt ra lệ “bảo kết hương thí“, bắt các làng xã phải chịu trách nhiệm về tư cách đạo đức của người đi thi, và lệ “cung khai tam đại“, bắt người đi thi phải khai rõ lý lịch ba đời, nếu xuất thân từ gia đình xướng ca hoặc có tội thì nhất thiết không được dự thi.
Việc giáo dục là theo tinh thần Nho giáo4. Các sách mà học sinh phải học là Tứ Thư19, Ngũ Kinh20 và những sách về triết học và lịch sử của Chu Hy5. Đề bài thi cũng được rút ra từ các sách trên. Lối giáo dục như vậy đã bóp nghẹt tư duy sáng tạo của học sinh. Những người đi học chỉ cốt thi đỗ, làm quan và ép mình theo các khuôn mẫu đạo đức mà Khổng giáo quy định.
Tuy nhiên, do ý thức dân tộc phát triển sau chiến thắng quân Minh14, không ít các nhà Nho đã cải biến các quan niệm Nho giáo cho phù hợp với các giá trị dân tộc. Có thể thấy rõ điều đó ở Nguyễn Trãi21 khi ông đưa ra các quan niệm về Nhân và Nghĩa.
Trong thế kỷ 15, Phật giáo22 và Đạo giáo23 không còn giữ địa vị cao như trước. Tuy vậy không có nghĩa là các tôn giáo này đã tàn lụi hẳn. Chúng được duy trì trong nông dân các làng xã. Cũng còn một số triều quan tôn sùng Phật giáo22 như Lê Vãn Linh24. Vả lại, Nho giáo trong thế kỷ này cũng không loại trừ hoàn toàn các tín ngưỡng khác. Ngay ông vua sùng Nho là Lê Thánh Tông8 cũng cho rước tượng nữ thần Pháp Vân ở chùa Dâu25 (Bắc Ninh) về làm lễ cầu mưa!
Chú thích:
1 GS. Hà Văn Tấn: Giáo sư – Nhà giáo Nhân dân Hà Văn Tấn (16/8/1937–27/11/2019) – một nhà sử học, khảo cổ học Việt Nam, quê quán tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, được sinh ra trong một dòng tộc có truyền thống khoa bảng, được nhiều người trong giới nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn coi là “Lê Quý Đôn của thế kỷ 20”. Giáo sư Hà Văn Tấn là giảng viên giảng dạy tại Bộ môn Lịch sử cổ đại Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội (1957), là cán bộ nòng cốt của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội, là người sáng lập Bộ môn Phương pháp luận sử học ở Khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội) (1982-2009), là Viện trưởng Viện Khảo cổ học (Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam) (1988-2008). Ông được Nhà nước phong tặng học hàm Giáo sư (1980), danh hiệu Nhà giáo Nhân dân (1997), được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học (2001). Ông được các thế hệ giáo viên và sinh viên Khoa Lịch sử – Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội gọi là một trong Tứ trụ “Lâm, Lê, Tấn, Vượng” của nền sử học Việt Nam đương đại.
2 Nhà Trần (1225-1400: 175 năm). Nhà Hậu Trần (1407-1427).
3 Nhà Tiền Lê (980-1009). Nhà Hậu Lê – Lê Sơ, Lê Trung Hưng (1428-1527) – quốc hiệu: Đại Việt, có 14 vị vua: Lê Thái Tổ (Lê Lợi), Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thiên Hưng, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Quang Trị, Lê Chiêu Tông, Lê Bảng, Lê Do, Lê Xuân. Đây là thời kỳ vĩ đại, hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam; nước Đại Việt phát triển cực thịnh về mọi mặt (kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, xã hội, giáo dục, quân sự, …); lãnh thổ mở rộng – xáp nhập xứ Bồn Man, Chiêm Thành.
4 Nho giáo (儒教), còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng (Nhơn đạo) là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội hài hòa, trong đó con người biết ứng xử theo lẽ phải và đạo đức, đất nước thái bình, thịnh vượng.
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu (1046–256 BC), với sự đóng góp của Chu Công Đán (Chu Công). Đến thời Xuân Thu (771-476 TCN), xã hội loạn lạc, Khổng Tử (28/9/551-11/4/479 TCN, ấp Trâu, thôn Xương Bình, nước Lỗ) phát triển, hệ thống hóa – san định, hiệu đính, giải thích bộ Lục kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu, Kinh Nhạc – kinh bị thất lạc nên chỉ còn 5 bộ) thường gọi là Ngũ kinh – và tích cực truyền bá, nên người đời thường gọi Khổng Tử là người sáng lập Nho giáo. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông đã tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Tăng Sâm (Tăng Tử), học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử đã dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại Học. Sau đó, Khổng Cấp (Tử Tư) – cháu nội của Khổng Tử, đã viết cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông đã chép thành sách Tứ Thư – Tứ Thư và Ngũ Kinh đã hợp thành 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo.
Thế giới quan Nho giáo xem xét ba yếu tố Quốc gia–Gia đình–Cá nhân trong mối liên hệ chặt chẽ, trong đó Cá nhân là yếu tố căn bản nhất cấu thành nên gia đình, xã hội – và coi con người cùng với Trời và Đất là “Tam tài”. Nho giáo chia ra 3 hạng người: Thánh nhân, Quân tử, Tiểu nhân.
Nhân sinh quan Nho giáo xem xét 5 mối quan hệ cơ bản: vua-tôi, cha-con, vợ-chồng, anh-em, bạn bè, và để thực hiện tốt 5 mối quan hệ này cần có Ngũ thường: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nho giáo cho rằng chữ hiếu là gốc của đạo nhân. Nho giáo yêu cầu thực hiện “Văn trị–Lễ trị–Nhân trị–Đức trị“.
5 Trình Hạo, Trình Di (儒教), Trình Hạo (程顥, 1032–1085), tên lịch sự Bóchún (伯淳), là một triết gia và chính trị gia, quê ở Lạc Dương, Trung Quốc. Ông lớn lên ở Huangpi và cùng em trai là Trình Di đi học ở Zhou Dunyi. Ông đã vượt qua kỳ thi Hoàng gia (năm 1057) và trở thành một học giả. Sau đó, ông làm thư ký hành chính ở huyện Hồ, Thiểm Tây, Thượng Nguyên (một khu vực ở Nam Kinh hiện nay), làm giám đốc hành chính ở Zezhou, làm quan chức thuế quan, bộ trưởng quân lễ, v.v.., và là một trong những nhà thiết lập Vũ trụ học Nho giáo. Triết lý của các ông là Nhị nguyên (giữa tất cả những gì hữu hình và vô hình) và phiếm thần (tin rằng tất cả những gì vô hình là cùng một thứ, như thần), bản chất con người, cảm xúc, hành động, phong trào, vai trò và quan hệ xã hội, cơ hội, v.v…, với một nguyên tắc phổ quát, thống nhất bên trong cho mọi thứ là hợp lý hơn thực tế ở bên ngoài (giống như thuyết lý của Platon).
Trình Hạo và Trình Di là một trong những người tiên phong của Tân-Nho giáo; họ thường được ghi nhận như là các nhân vật sáng lập chính thức của Nho giáo cùng với Zhu Xi và một số học giả khác. Hai anh em Trình còn được gọi là “Nhị Trình” (二程), hoặc “Trình tiên sư” (大程), “Trình tiên sinh” (小程). Họ nghiên cứu rộng rãi về Vũ trụ học, áp dụng các nguyên tắc của Nho giáo vào việc nghiên cứu về các thiên thể, áp dụng các nguyên tắc của Thiên Chúa giáo hay trật tự tự nhiên – gọi là li, đối với Tian, hay thiên đàng, làm quyền lực ban đầu và hướng dẫn hướng đi cho họ. Trình Hạo thành lập các trường học tại Fugou và Songyang (ở Đặng Phong hiện nay). Ông luôn đề cao quan điểm rằng học tập và học bổng là phương tiện để khiến phái nam nhi trở nên hiền lành. Trình Hạo đã mất năm 1085 (ở tuổi năm mươi ba).
6 Chu Hy (朱熹, Zhū Xī; Chu Hsi; 18/10/1130 – 23/4/1200), quê Vụ Nguyên, tỉnh Giang Tây, nhưng sinh ra tại Trịnh Thị thảo đường (鄭氏草堂) ở huyện Vưu Khê (nay là thành phố Tam Minh, tỉnh Phúc Kiến), biểu tự Nguyên Hối (元晦) hoặc Trọng Hối (仲晦), tiểu tự Quý Diên (季延), hiệu là Hối Am (晦庵), Lão Đình (考亭), về sau xưng Hối Ông (晦翁), lại xưng Tử Dương Phu Tử (紫陽夫子), là người đã phát triển học thuyết lí – khí của Trình Hạo và Trình Di, đã đưa Lý học Tống Nho lên thành một hệ thống duy tâm khách quan hoàn chỉnh, được gọi là Trình Chu lí học.
Ông là học trò bốn đời của Trình Di, và học trò của Chu Đôn Di.
Chu Hi lúc 5 tuổi đã đọc sách Hiếu Kinh, đến năm 18 tuổi thì đậu Hương cống thuộc Kiến Châu, đậu Tiến sĩ, năm Thiệu Hưng thứ 18 (1148) khi ấy 19 tuổi. Năm 21 tuổi (1151), Chu Hi được triều đình cử đến huyện Đổng An làm chức Chủ bạ (27 năm), lãnh trách nhiệm thu thuế và coi cả việc giáo dục. Ông làm quan (suốt 48 năm) tới chức Bảo Văn các Đãi chế (寶文閣待制), sau nhận lãnh Thị giảng Học sĩ (侍講學士) (40 ngày) cho Tống Ninh Tông. Ông từ quan về dạy học ở Lô Sơn, tỉnh Giang Tây và dành hết thời gian cho việc giáo dục và viết sách. Ông được phong tước hiệu Vụ Nguyên Khai Quốc nam (婺源開國男), thực ấp 300 hộ, kiêm tu soạn của Bí các.
Chu Hi quan niệm “lí” và “khí” không tách rời nhau. Ông đã kế thừa quan điểm “nhất vật lưỡng thể” của Trương Tải. Ông cho rằng sự vật vận động qua hai hình thức: “hoá” và “biến“. Về quan hệ tri hành thì cho tri trước hành sau, nhưng xét về tầm quan trọng thì cho hành quan trọng hơn tri và nhấn mạnh vai trò của hành trong nhận thức. Về vấn đề tính người thì cho rằng thánh hiền bẩm thụ khí trong, kẻ ngu hèn bẩm thụ khí đục, cho rằng con người thì có tính thiên mệnh (đạo tâm) và tính khí chất (nhân tâm). Nhấn mạnh sự đối lập giữa “thiên lí” và “nhân dục“, chủ trương vứt bỏ “tư dục” và phục tùng “thiên lí“. Về quan niệm lịch sử, Chu Hi cho rằng thời cổ đại lưu hành thiên lí, còn thời sau thì thiên lí mất đi và nhân dục xuất hiện ngày càng nhiều. Lí luận của Chu Hi về thiên lí và nhân dục yêu cầu mọi người phải tự an với phận mình, được gọi là Tồn thiên lí, khắc nhân dục (存天理、滅人欲).
[7 Ngô Sĩ Liên (吳士連– 1400-1499) là người làng Chúc Lý, huyện Chương Đức (nay là thôn Chúc Lý, xã Ngọc Hòa, huyện Chương Mỹ, Hà Nội), là một nhà sử học thời Lê sơ (1428-1527), là người đã tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn (chức vụ thư ký trong nghĩa quân) và có công lớn trong việc biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư – bộ quốc sử chính thống cũ nhất của Việt Nam mà còn được lưu truyền tới ngày nay.
… đang cập nhật …
BAN TU THƯ
05 /2020
GHI CHÚ:
◊ Nguồn: Sự Sinh Thành của Việt Nam. Hà Văn Tấn. NXB. Thế Giới, 2018.
◊ Các chú giải và hình ảnh sê-pia hóa do Ban Tu Thư – thanhdiavietnamhoc.com thiết lập.