TIẾNG VIỆT từ TK 17: Các cách dùng Cái đồng, Kính, Gương, … Chiếu kính, soi gương, soi đồng, Ống dòm (Phần 45)

TIẾNG VIỆT từ TK 17: Các cách dùng Cái đồng, Kính, Gương, … Chiếu kính, soi gương, soi đồng, Ống dòm (Phần 45)

NGUYỄN CUNG THÔNG1

      Phần này bàn về các cách dùng cái đồng, kính, gươngchiếu kính, soi đồng, soi gương từ thời Linh mục (LM) DE RHODES2 và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo.

      Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh /Bồ (chữ Quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm cùng thời.

1. Cái đồng là Gương, Kính

1.1  Cái đồng

      Việt-Bồ-La (VBL) (trang 236) ghi cái đồngspeculum (La Tinh, lại có gốc là động từ specio – nghĩa là xem xét, quan sát – so với cái soi 3 hay giám HV), chỉ cái gương soi; thành ra soi đồngsoi gương (VBL, trang 693)   

chu.dong-tu.dien-viet.bo.la-trg.693-vietnamhoc.net
Hình 1:  Chữ ĐỒNG – Từ điển Việt Bồ La, trang 693 (Nguồn: Từ điển Việt Bồ La, ALEXANDRE DE RHODES)

    Nguyên nhân đồng tương đương với gương soi là từ thời Cổ đại người xưa đã dùng kim loại đồng đánh bóng để có thể nhìn thấy hình phản chiếu hay soi sáng chỗ tối… Đồng (thường pha một ít kim loại khác như thiếc) không cứng và dễ đánh bóng nên thích hợp làm kính phản chiếu (gương soi). Chữ đồng HV viết bằng bộ kim (kim loại) hợp với chữ đồng (thành phần hài thanh), đồng chỉ kim loại màu đỏ – hay là ‘vàng đỏ(xích kim 赤 金) của thời xưa. Nét nghĩa trên đã mở rộng để chỉ các đồ vật làm bằng đồng (đồ đồng – BEHAINE 4 /1772-1773) như gương soi, lư hương, tiền bạc (một đồng, hai đồng, đồng tiền, …, v.v….).

      Kính dịch Nômđồng (gương soi) trong Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa 5: td. hình chụp trang 149 (hay 40a) bên trên ghi kính bồn ~ chậu đồng, phù hợp với nghĩa của đồng thời VBL.     

chi.nam-ngoc.am-giai.nghia-vietnamhoc.net
Hình 2: Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa.

      Để ý chữ Nôm đồng viết bằng chữ đỗng (hay động – theo các tài liệu HV hiện nay) ; thật ra chữ này còn có thể đọc là đồng (bình thanh): 徒 紅 切 đồ hồng thiết (QV), 徒 東 切音 同 đồ đông thiết, âm đồng (TV, LT). Ngoài ra, trang 148 cũng có đoạn “Cổ kính gương cũ để lâu chẳng nhìn” – xem hình chụp bên dưới :

      Tranh cho thấy một vị phu nhân đang soi gương đồng trong phòng trang điểm với hai nữ gia nhân. Mặt sau của kính (gương đồng) thường có những hình thú vật trong huyền thoại hay cảnh thiên nhiên (td. cây cối, sông núi): hình sau là mặt sau của một gương đồng thời nhà Đường – trích từ trang Chinese bronze mirrors at Compton Verney Art gallery.

guong.dong-vietnamhoc.net
Hình 3: Gương đồng xưa.

    Cũng cần ghi nhận thêm ở đây là kính (gương) bằng thuỷ tinh chỉ nhập vào Trung Hoa khoảng thời nhà Thanh, từ đó gương đồng càng ngày càng ít người dùng vì không tiện lợi bằng gương thuỷ tinh có mặt sau tráng bạc. Khái niệm về gương (soi) rất khác vào TK 17 và trước đó so với thời nay. 

xxx
Hình 4Tú long hiểu kính đồ  綉 櫳 曉 鏡 圖 – tranh vẽ bởi VƯƠNG SAN 王 詵 thời Tống (TK 11).

1.2  Gương, Gượng trong VBL         

      Kính (speculum La Tinh) tương ứng với espelho (tiếng Bồ Đào Nha, có gốc La Tinh là speculum): vào thời VBL, kính cũng là gươngđồng – xem một trang Từ điển chép tay từ nguyên bản VBL vào cuối TK 18 bên dưới – trích từ Từ điển chép tay lưu trữ trong Thư viện Toà Thánh La Mã (Borg.tonch.).

kinh-guong-thu.vien-toa.thanh-vietnamhoc.net
Hình 5:  KÍNH – GƯƠNG (Nguồn: Thư viện Toà thánh)

 

guong-viet.bo.la-trg.301-vietnamhoc.net
Hình 6Chữ GƯƠNG
trong Từ điển Việt Bồ La, trang 301.

         Tiếng Mường (Bi) cươnggương cũng giống như VBL trang 301. Trong An Nam Dịch Ngữ 6 thì kính ghi âm đọc là canh HV . Tiếng Việt chỉ dùng hai dạng gương gượng, không thấy dùng các dạng gưỡng, gưởng, gường, gướng – hay chỉ sử dụng 1/3 tiềm năng của âm này trong ngôn ngữ hàng ngày.

     Xem lại cấu trúc chữ kính HV: chữ kính (thanh mẫu kiến vận mẫu canh thanh 庚 青 khứ thanh, khai khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết 居 慶 切音 竟 cư khánh thiết, âm cánh (TVGT, ĐV, QV, TV, LT, VH, CV, TVi, CTT) TVGT ghi 景 也 cảnh dã 居 映 切 cư ánh thiết (NT, TTTH) 居 亮 切姜 去 聲 cư lương thiết, khương khứ thanh (VB, TVi) – so với chữ Nôm gương 𦎛 dùng khương làm thành phần hài thanh TNAV ghi vận bộ canh thanh 庚 青 (khứ thanh).

guong-tu.dien-behaine-taberd-chep-vietnamhoc.net
Hình 7Chữ GƯƠNG trong Từ điển BÉHAINE do TABERD chép tay lại.

      CV ghi cùng vần /khứ thanh 敬 竟 鏡 獍 (kính cánh kính).

      Giọng BK bây giờ là jìng (theo pinyin) so với giọng Quảng Đông geng3 và các giọng Mân Nam 客 家 话 [海 陆 腔] giang5 [台 湾 四 县 腔] giang5 [沙 头 角 腔] giang5 [陆 丰 腔] giang5 [东 莞 腔] giang5 [宝 安 腔] giang5 [梅 县 腔] giang5 [客 英 字 典] giang5 [客 语 拼 音 字 汇] giang4, tiếng Nhậtkyōtiếng Hàngeoul gyeong. Một dạng âm cổ phục nguyên của kính là *kiangh (đọc như ki-ánh tiếng Việt bây giờ), cũng như khuynh hướng đọc thành *kɨəŋ hay gần như cương tiếng Việt bây giờ (theo Vận Bổ). Một dạng chữ Nôm cổ của gương𦎛 chữ khương hợp với chữ ti / khương là hài thanh và ti /coi sóc, trông coi (hoạt động khi nhìn gương, soi gương, xem xét 7 mở rộng nghĩa thành quan chức – chữ khương còn là chữ Nôm gừng. Âm khương chữ Nôm cho ta thấy vết tích âm cổ của kính. VBL ghi gương còn đọc là cương, cùng với cách đọc hậu kì *kương (theo Vận Bổ) cho ta cơ sở liên kết âm kính HV với âm gương tiếng Việt, thanh điệu tuy khác biệt (bình thanh so với khứ thanh) có thể là do thời gian nhập vào tiếng Việt đã lâu nên tạo ra sự thay đổi về thanh điệu như các trường hợp mồ mộ mô mả, nghiên nghiền nghiến nghiễn…, v.v… Dạng cương8 của gương vào TK 17 trong VBL là một minh chứng quan trọng cho thấy tương quan của hai phụ âm cuối lưỡi k – g trong quá trình hình thành tiếng Việt; so sánh các trường hợp tương tự như can-gan, cận-gần, cẩm-gấm, cấp-gấp, … Trong 10 chữ Hán có thành phần là cánh , thì có 4 trường hợp có khả năng đọc thành *kɨəŋ hay gần như âm cương tiếng Việt bây giờ (các chữ số 1, 3, 5, 8) :

1  2  3  4  5  6  7  8 (kính)  9  10 𧫙

      Trừ chữ số 8 – kính HV thường gặp – các chữ khác là chữ hiếm, td. chữ số 3 (nghĩa là đánh /gõ) có các cách đọc theo phiên thiết :

一 敬 切 nhất kính thiết (TVGT),
於 慶 切 ư khánh thiết (TV),

巨 兩 切, 强 上 聲 cự lưỡng thiết, cường thượng thanh (TV, LT),
倚 兩 切音 怏 ỷ lưỡng thiết, âm ưởng (TV, LT)…, v.v…

     Chữ số 1 còn dùng tương đương với cương cánh , để ý vần –inh /-anh có thể đọc thành –ương. Tương quan cươnggương còn thấy trong trường hợp cưỡng HV ~ gượng tiếng Việt (chi tiết trong mục 1.2.3).

Gương, Kính mở rộng nghĩa

     Gương soi (cụ thể) đã mở rộng nghĩa để chỉ một hành động tốt, mẫu mực (trừu tượng) để người ta noi theo hay bắt chước. Tuy VBL không9 ghi nghĩa bóng này như các Từ điển Béhaine /TABERD sau đó, nhưng lại xuất hiện PGTN như :  “Vậy thì làm gương chịu luỵ, vâng phép vua chúa, sự gì chẳng có lỗi đạo.” PGTN trang 160-181 “thì đức Chúa Giê Su dùng nhân đức mình làm gương cho ta” PGTN trang 171″ mà vậy làm gương tốt lành, đang bấy lâu năm, cho ta bắt chước và chịu luỵ và khiêm nhường làm vậy” PGTN trang 172 “lấy đức Chúa Giê Su làm gương” PGTN trang 175 “thì đức Chúa Giê Su cũng cầu khẩn, làm gương cho ta xem mà bắt chước vậy” PGTN trang 188.

     “Trong Sách gương truyện rằng: một người ghét nhà kia chẳng có lẽ nào mà tha” Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông – bản Nôm của Maiorica trang 150 (hay 197) …, v.v…

      Ngôn ngữ Tây phương không mở rộng nghĩa như vậy, từ nghĩa nguyên thuỷ là chất thuỷ tinh (glass tiếng Anh, verre tiếng Pháp > ve chai), danh từ glass /A và verre /P đã thêm nét nghĩa ly, cốc (cụ thể). Tiếng Anh dùng example, (role) model để chỉ một tấm gương tốt hay mẫu mực đển người ta noi theo. Không những gương đã mở rộng nghĩa, kính (gương đồng, nguyên nghĩa HV) cũng thêm nét nghĩa chỉ chất thuỷ tinh10 trong tiếng Việt như cửa kính, kính đeo mắt, … Tư duy tổng hợp dẫn đến khuynh hướng mở rộng nghĩa từ gương soi (cụ thể) ra mẫu mực (trừu tượng): ảnh qua gươngảnh ảo (của một sự vật), nhìn toàn cảnh (tổng thể) thì có thể xem như chỉ một sự vật mà thôi. Tư duy phân tích lại nhìn vấn đề khác hơn: đại diện của sự vật phải là một thành phần thật của sự việc /vật thể, cho nên không dùng ‘ảnh ảo‘ hay gương mà lấy một mô hình cụ thể (model, role model), một phần của vật thể (example /A, exemple /P: từ gốc La Tinh ex- là lấy ra một phần, một mẫu…). Đây là một chủ đề thú vị nhưng không nằm trong phạm vi bài này.

Cưỡng /Cường là Gượng

           So sánh các cách đọc chữ cường /cưỡng HV theo phiên thiết :

巨 良 切 cự lương thiết (TVGT, ĐV),
巨 良 反 cự lương phản (NKVT 五 經 文 字),

巨 章 切 cư chương thiết (NT),
渠 良 切音 彊 cừ lương thiết, âm cường (TV, VH, LT, CV, TG 字 鑑, LTCN 六 書 正 譌, TVi/CTT) (A),

其 兩 切彊 上 聲 kì lưỡng thiết, thượng thanh (NT, QV, TV, LT),
舉 兩 切 cử lưỡng thiết (TV, LT) TV ghi thượng thanh 上 聲,

其 兩 切 kì lưỡng phản (NKVT 五 經 文 字),
分 二 音不 知 何 據 phân nhị âm, bất hà tri cứ (QV) ,

其 亮 切彊 去 聲 kì lượng thiết, cường khứ thanh (TV, VH, CV, TTTH, TVi) (C),
其 亮 反 kì lượng phản (LKTG),

巨 兩 切 cư lưỡng thiết (CV, TVi) (B),
斤 兩 切羌 上 聲 cân lưỡng thiết, khương thượng thanh (TVi),

TNAV ghi vận bộ 江 陽 giang dương (dương bình) thanh mẫu khê ,
TNAV ghi vận bộ 江 陽 giang dương (thượng thanh) thanh mẫu khê ,

TNAV ghi vận bộ 江 陽 giang dương (khứ thanh) thanh mẫu kiến ,
CV ghi cùng vần /bình thanh 彊 强 (cường) (A),

CV ghi cùng vần /thượng thanh 彊 强 疆 滰 勥 (cưỡng) (B),
CV ghi cùng vần /khứ thanh 強 倞 弶 (*cưỡng) (C), …, v.v…

      Giọng BK bây giờ là qiáng qiǎng jiàng (theo pinyin) so với giọng Quảng Đông goeng6 koeng4 koeng5 và các giọng Mân Nam [ 客 家 话 [梅 县 腔] giong3 kiong2 [客 语拼 音 字 汇] kiong2 kiong3 [海 陆 腔] kiong2 giong3 giong1 [陆 丰 腔] kiong3 kiong3 [台 湾 四 县 腔] kiong2 giong3 giong1 [宝 安 腔] kiong2 | giong3, tiếng Nhật kyō tsuyoi shiru, tiếng Hàn kang.

      Từ các cách đọc theo phiên thiết trên, ta có cơ sở để liên hệ cường /cưỡng với gượng, cũng như kính hay *kɨəŋ với gương.

Soi đồng là soi Gương, chiếu Kính

     Chiếu kính xuất hiện hai lần trong VBL, trang 384 mục kính và trang 107 mục chiếu, có nghĩa tương đương với soi gươngsoi đồng. Phần sau tìm hiểu thêm về tương quan ngữ âm giữa chiếusoi (rọi).

soi-dong-viet.bo.la-trang.384
Hình 8: SOI ĐỒNG – Từ điển Việt Bồ La, trang 384.

   Chiếu HV có nghĩa là soi sáng, rọi sáng… Chữ chiếu (thanh mẫu chương, vận mẫu 蕭 豪 tiêu hào, khứ thanh, khai khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết :

之 少 切 chi thiếu /thiểu thiết (TVGT, ĐV, QV) TVGT/QV/TV/LT ghi 明 也 minh dã 之 笑 切音 詔 chi tiếu thiết (TV, VH, LT, LTCN 六 書 正 譌, CV, TVi, CTT)

TNAV ghi vận bộ 蕭 豪 (khứ thanh),
CV ghi cùng vần 照 炤 昭 詔 (chiếu/chiêu), …, v.v…

      Giọng BK bây giờ là zhào (theo pinyin) so với giọng Quảng Đông ziu3 và các giọng Mân Nam 客 家 话 [沙 头 角 腔] zau5 [客 语 拼 音 字 汇] zau4 zeu4 [台 湾 四 县 腔] zeu5 zau5 [梅 县 腔] zhau5 [陆 丰 腔] zhau5 [东 莞 腔] zau5 [海 陆 腔] zhau5 [客 英 字典] zhau5 [宝 安 腔] zau, tiếng Nhật shō tiếng Hàn cyǒ. Một dạng âm cổ phục nguyên của chiếu*tjaws (> chói), còn âm cổ của chiêu *tjaw > *choi > soi (xát hoá). – xem thêm chi tiết về chữ chiêu 昭, thành phần hài thanh của chiếu). Nên ghi nhận ở đây là Tập Vận (năm 1037/1067) từng ghi chiếu tương đương với chiêu (thành phần hài thanh của chiếu) – xem hình chụp lại ở bên dưới.

dong-viet.bo.la-trang.693
Hình 9:  ĐỒNG – Từ điển Việt Bồ La, trang 693.

     Học giả ĐOÀN NGỌC TÀI (trong Thuyết Văn Giải Tự Chú, năm 1808) cũng ghi nhận về chữ chiếu như sau 與 昭 音 義 同 dữ chiêu âm nghĩa đồng (chữ chiếu và chữ chiêu có cùng âm và cùng nghĩa). So với tiếng Việt dùng dạng soi (chữ Nôm 𤐝 = bộ hoả + chữ lôi) bình thanh là một dạng âm cổ hơn của chiêu, so với dạng chói tương ứng với chiếu.     


Chiêu /chiếu /chiểu cũng là soi (rọi)

      Chữ chiêu /chiếu /chiểu (thanh mẫu chiếu, vận mẫu 蕭 豪 tiêu hào, bình thanh, khai khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết :

止 遙 切 chỉ diêu thiết (TVGT, ĐV, QV) – để ý [博 雅] 明 也 Bác Nhã ghi là minh dã (cũng như TV, LKTG so với chiếu theo TVGT),
之 遙 切 chi diêu thiết (NT, TV, TTTH, CV),

之 遙 翻 chi diêu phiên (BH 佩 觿),
時 昭 切音 韶 thì nhiêu thiết, âm thiều (TV, LT, NT),

市 遙 切 thị nhiêu thiết (TTTH),
時 昭 切音 韶 thì chiêu thiết, âm thiều (CV),

止 少 切音 沼 chỉ thiểu thiết, âm chiểu (TV, CV) – CV ghi thượng thanh,
之 笑 切 chi tiếu thiết (TV, LT, CV, TVi)  – CV/TVi ghi khứ thanh,

之 笑 切或 省 作 昭 chi tiếu thiết – chiếu, hoặc tịnh tác chiêu (TV),
蚩 於 切 xi ư thiết (VB),

TNAV ghi vận bộ 蕭 豪 tiêu hào (dương bình),

CV ghi cùng vần /bình thanh 昭 鉊 招 釗 炤 朝 鼂 (chiêu chiếu/chiêu triêu/triều trào),
CV cũng ghi cùng vần /bình thanh 韶 㲈 招 佋 昭 詔 苕 (thiều thiêu /chiêu chiêu /thiệu *chiếu thiều /điều),

CV cũng ghi cùng vần /thượng thanh 沼 昭 (chiểu chiêu /chiểu),
CV cũng ghi cùng vần /khứ thanh 照 炤 昭 詔 (chiếu *chiêu /chiếu)…, v.v…

tap.van-vietnamhoc.net
Hình 10: Tập Vận ghi chiếu (> chói) bộ hoả tương đương với chiêu (> soi) bộ nhật.

Giọng BK bây giờ là zhāo (theo pinyin) so với giọng Quảng Đông ciu1 ziu1 và các giọng Mân Nam 客 家 话 [宝 安 腔] zau1 [客 语 拼 音 字 汇] zau1 zeu1 [东 莞 腔] zau1 [客 英 字 典] zhau1 [台 湾 四 县 腔] zau1 zeu1 [梅 县 腔] zhau1 shau1 [海 陆 腔] zhau1 [陆 丰 腔] zhau1, tiếng Nhật shō và tiếng Hàn so, jo. Âm chiêu có thể là bình thanh, nhưng ít người biết khả năng là thượng thanh hay khứ thanh (TV, LT, CV) so với âm chiếu. Một dạng âm cổ phục nguyên của chiêu là *tjaw > *choi > soi nếu là bình thanh – nói sòi là nói giỏi (ĐNQATV), và có thể một biến âm là sõi (VBL nói saõ sõi là nói hay, nói lưu loát rõ ràng).

2.2  Như vậy ta có cơ sở đề nghị cụm từ HV chiếu kính chính là soi gương tiếng Việt, tuy nhiên VBL cũng ghi nhận thêm là chiếu kính không chỉ đơn giản là soi đồng (soi gương) mà còn là một hoạt động tín ngưỡng dân gian: nhìn vào cái đồng (cái gương) để đoán biết sự lành hay dữ qua những hình ảnh trong đó11. Các mục soi gương (VBL trang 384), đồng (VBL trang 236) và kính (VBL trang 384) đều ghi khả năng tiên tri của gương trong xã hội VN vào TK 17. LM DE RHODES đã ghi nhận khá nhiều các tục lệ và tín ngưỡng dân gian, gọi là ‘dị đoan’, trong VBL như :

đeo bùa (VBL trang 56) – đeo bùa vào cổ (để cho may mắn);
xin keo (VBL trang 356, 891);
xin âm dương (VBL trang 891;

gieo tiền cho biết vận may hay không – keo chỉ đồng tiền chứ không phải là hai mảnh gỗ hình bán nguyệt;
xem giò (VBL trang 284-285): tục xem bói bằng chân gà; bắt thăm, bỏ thăm, bẻ thăm (VBL trang 737), bẻ gam, bắt gam (VBL trang 257):  rút số bằng những que găm hay cọng rơm rạ để cho biết vận mạng của mình;

xung (VBL trang 897): niềm tin dân gian cho rằng tuổi xung khắc nên hai vợ chồng gặp nhiều vấn đề như không có con, không làm nên hay không yêu thương nhau…, v.v…

     Đây là một chủ đề quan trọng cần khai thác thêm nhưng không nằm trong phạm vi bài viết này.


Mộc kính – mục kính   

muc.kinh-tk.17-vietnamhoc.net
Hình 11:  Một cặp mắt kính (mục kính) vào TK 17.

     VBL trang 384 ghi mộc12 kínhperspicilia (tiếng La Tinh trung cổ, nghĩa là kính đeo mắt), nhưng tới thời Béhaine (1772/1773) thì ghi là mục kính 目 鏡 ~ conspicillum (tiếng La Tinh, nghĩa là một lỗ nhỏ để quan sát, kính đeo mắt, ống dòm). THEUREL (1877) thêm vào cách dùng tương đương là nhãn kính hay nhỡn kính.

Ống ngọc dòm là Ống dòm

      ng dòm vào thời VBL gọi là ống ngọc dòm (VBL trang 587) với ngọc chỉ thuỷ tinh (VBL ghi là thuỷ thinh) hay vitrum (La Tinh). Thật ra ngọc là loại đá quý có thể trong suốt như thuỷ tinh, cho nên đến thời BéhaineTaberd đã giải thích chính xác hơn là gemma, lapis pretiosis (ngọc, đá quý). Có lẽ VBL thêm vào chữ ngọc cho rõ ý hơn, hàm ý dùng các loại kính hội tụ (thuỷ tinh – ngọc) trong một cái ống để nhìn thấy xa được (dòm). Cấu trúc ‘phức hợp‘ này còn thấy trong mục thiên đàng mà VBL ghi là nên gọi là thiên chúa đàng (thêm vào chữ chúa /chủ) hay nhân danh thì thêm vào nhân nhất danh trong mô thức rửa tội.

ong.dom-viet.bo.la-trang.587-vietnamhoc.net
Hình 12: ỐNG DÒM – Từ điển Việt Bồ La, trang 587.

Giám cũng là gương

     Giám HV hay tiền thân là (xem quá trình hình thành chữ giám bên dưới) có nghĩa là gương soi. Giám, một từ Hán cổ, từng có nghĩa là cái chậu lớn, khi đựng nước thì có thể dùng làm gương soi mặt hay khi đánh bóng chậu (đồng) cũng cùng một công dụng – đây là nghĩa hậu kì (td. 鑑 謂 之 鏡 giám vị chi kính – QUẢNG NHÃ). Chữ giám thuộc loại chữ hiếm, tần suất13 khoảng 0.001% so với chữ kính thường gặp hơn với tần suất 0.021%.

     Giám HV xuất hiện một lần trong Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa :

Bảo giám gương sáng làu làu (trang 148, sđd).

      Giám cũng xuất hiện một lần trong Đại Nam Quốc Ngữ 14:

Bảo giám gương (trang 185, sđd).

qua.trinh-hinh.thanh-chu.giam-vietnamhoc.net
Hình 13:  Quá trình hình thành chữ giám từ trái sang phải.

+  cột 1 là giáp cốt văn, chữ tượng hình cho thấy hình một người ngồi soi chậu (có thể chậu nước hay chậu đồng) thời nhà Thương;
+  cột 2 là kim văn (td. thời Tây Chu);
+  cột 3 là tiểu triện (td. thời Thuyết Văn Giải Tự);
+  cột 4 là lục thư thống 六 書 統 thời Minh.

      Tuy nhiên, có lẽ là từ HV rất cổ này không được đại chúng dùng hay không phổ thông nên không thấy ghi trong VBL/PGTN hay Từ điển Béhaine /TABERD, nhưng Từ điển của THEUREL và ĐNQATV có ghi nghĩa gương của giám. Vào cuối TK 19, học giả TRƯƠNG VĨNH KÝ đã dịch ra chữ Quốc ngữ cuốn Minh Tâm Bửu (Bảo) Giám15 明 心 寶 鑑 (tạm dịch /NCT: gương báu soi sáng lòng người), một tài liệu Hán cổ không biết rõ tác giả là ai.

      Tóm lại, đồng vào TK 17 có nghĩa là gương soi (gương đồng), kínhsoi đồng có nghĩa là soi gương hay chiếu kính: các dữ kiện ngôn ngữ này đã được VBL và PGTN ghi nhận đầy đủ; cái đồngcái gương, cái kính vào thời này. VBL còn ghi một âm đọc khác của gương cương, phản ánh một phụ âm đầu cổ hơn thuộc loại vô thanh /tắc /cuối lưỡi, phù hợp với cấu trúc chữ Nôm gương 𦎛 với thành phần hài thanh là khương – so với cưỡng HV và gượng. Các cách đọc phiên thiết trung cổ của chữ kính cũng cho thấy nguyên âm sau không tròn môi với độ mở miệng vừa –ươ (hay /ɨə/) – giải thích liên hệ giữa âm kính /cánh HV và gương; kính còn có các biến âm gần đây hơn là kiến (không thấy dùng nữa16) và kiếng. Ngoài ra chữ kính viết bằng bộ kim cũng cho thấy hàm ý gương bằng đồng thời trước, khác với nét nghĩa mở rộng cận đại của kính tiếng Việt là chất thuỷ tinh. Không những kính đã thay đổi nghĩa phần nào, gương cũng mở rộng nghĩa từ cụ thể (cái gương để soi) đến trừu tượng, dùng để chỉ mẫu mực /hành động để người ta noi theo (~ noi gương) mà làm hay bắt chước. Chiếu HV (> chói, rọi) còn có dạng tương đương là chiêu mà một dạng âm trung cổ phục nguyên là *tjaw, dẫn đến dạng soi tiếng Việt, cả hai cách dùng chiếu kínhsoi gương đều hiện diện vào TK 17. Tuy nhiên, VBL ghi nhận thêm là chiếu kínhsoi đồng còn là hoạt động của phù thuỷ khi nhìn gương để làm phù chú, so với phong tục soi gương của xã hội Trung Hoa thời xưa cũng mang đậm tính cách dị đoan. Ít người biết giám HV cũng từng chỉ gương soi, một chữ cổ hơn kính và từng hiện diện trong tiếng Việt với nét nghĩa này, mà vết tích còn thấy qua nét nghĩa soi xét như thái giám, giám sát, giám thị, giám học… Hi vọng bài viết này là động lực gợi ý cho người đọc tìm hiểu sâu xa hơn về tiếng Việt và khám phá nhiều kết quả thú vị hơn nữa.


Phụ Trương

Kềnh /kình cũng là gương (guơng sen)

           Chữ kềnh /kình (thanh mẫu ) có các cách đọc theo phiên thiết :

巨 京 切 cự kinh thiết (TVGT),
巨 京 反 cự kinh phản (NKVT 五 經 文 字),

渠 京 切音 擎 cừ kinh thiết, âm kình (ĐV, QV, TV, LT, VH, CV, TTTH, TVi),
居 影 切 cư ảnh thiết (ĐV, CV, TVi),

舉 影 切音 景義 同 cử ảnh thiết, âm cảnh /ảnh, nghĩa đồng (TV, VH, LT),
渠 映 切 cừ ánh thiết (TV, LT),

其 映 切 kì ánh thiết (CV, TVi),
渠 敬 切音 競 cừ kính thiết, âm cảnh (ĐV, QV, TV, VH, CV, TTTH).

TNAV ghi vận bộ 庚 青 canh thanh (dương bình);

CV ghi cùng vần /bình thanh 勍 黥 剠 擎 鯨 䲔 檠 㯳 擏 (kình kềnh /kình);
CV cũng ghi cùng vần /thượng thanh 景 境 剄 頸 儆 警 㯳 檠 擏 (cảnh hĩnh kềnh /cảnh);
CV cũng ghi cùng vần /khứ thanh 競 檠 擎 誩 倞 (cạnh kềnh).

      Giọng BK bây giờ là qíng (theo pinyin) so với giọng Quảng Đông king4 và các giọng Mân Nam 客 家 话 [海 陆 腔] kiang2 kiong1 [梅 县 腔] gin3 [台 湾 四 县 腔] kiang2 kiong1  [客 英 字 典] kiang /kei, tiếng Nhật kyengtiếng Hàn gyeong, …, v.v…

      Kềnh /kình có nhiều cách đọc, tuy nhiên với thành phần hài thanh là âm kính và cách đọc 渠 映 切 cừ ánh thiết (TV, LT) hay 其 映 切 kì ánh thiết (CV, TVi) so với cách đọc 居 映 切 cư ánh thiết (NT, TTTH) của kính : ta có cơ sở liên hệ kềnh /kình với âm gương trung cổ. Kềnh /kình động từ có nghĩa là cần, nắm; còn danh từ có nghĩa là chân nến (để giữ cây nến), cái khung để giữ dây cung (và chỉnh độ căng của dây). Điều này giải thích được phần nào cách dùng gương sen (đài sen, búp sen) là chỗ chứa các hạt sen, từng được Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa /Đại Nam Quốc Ngữ ghi lại :

Liên phòng có hiệu gương sen để dành (trang 203, sđd);
Liên phòng gương sen (Đại Nam Quốc Ngữ trang 203, sđd)

Ống ngọc dòm – Ống dòm – Kính viễn vọng

      Vào đầu TK 17, khi các giáo sĩ Tây phương qua Á Đông truyền đạo, thì kính viễn vọng (kính thiên văn) vừa mới xuất hiện ở Âu Châu. Các giáo sĩ Dòng Tên đã đem những kính viễn vọng đầu tiên vào Trung Hoa khoảng đầu TK 17 cũng như ‘nâng cấpthiên văn học bản địa17 (td. vẽ địa đồ, tính thời gian chính xác hơn…). Kính viễn vọng tiếng Anh là telescope (téléscope tiếng Pháp) có gốc La Tinh tēlescopium, lại đến từ tiếng Hi Lạp cổ đại τῆλε (têle) nghĩa là xa hợp với σκοπέω (skopéō) người nhìn thấy: so sánh với cách dịch HV là viễn vọng kính (~ vọng viễn kính 望 遠 鏡 ~ kính nhìn thấy xa). Danh từ telescope xuất hiện vào năm 1611 do Nhà toán học Hi Lạp GIOVANNI DEMISIANI để chỉ một trong các ống dòm phát minh bởi nhà thiên văn /vật lý người Ý GALILEO GALILEI (1564-1642). Điều này giải thích tại sao LM DE RHODES không thấy dùng danh từ telescopium, chỉ đến thời LM Taberd (1838) thì telescopium mới được ghi lại và dịch là ống dòm. Trước đó LM BEHAINE (1772/1773) giải thích ống dòmconspicillum tubulatum (NCT: conspicillum là mục kính, tubulatum là hình ống) giống như giải thích ống ngọc dòm (VBL trang 587).

     Tranh vẽ một trong những kính viễn vọng đầu tiên của Hà Lan trong cuốn “Emblemata of zinne-werck(Middelburg, 1624) – có thể xem như một loại ống dòm (thời kỳ sơ khai dùng một mắt /ống). Có lẽ nên nhắc ở đây cách dịch rất lạ của học giả HOÀNG XUÂN HÃN (HXH) trong cuốn Danh Từ Khoa Học18 (1942 /1951): téléscopekính võng viện – xem hình chụp bên dưới (trang 174).

ong.dom-so.khai-vietnamhoc.net
Hình 14: Tranh Kính viễn vọng đầu tiên của Hà Lan (Nguồn: “Emblemata of zinne-werck”, Middelburg, 1624).

      Điểm rất thú vị là học giả HXH đã dùng trực tiếp từ cụm danh từ HV vọng viễn kính rồi đổi chữ kính ra trước theo trật tự chữ Việt, tuy nhiên thanh điệu lại trở thành võng viện (?) thay vì vọng viễn (nhìn ra xa); đây có thể do phương ngữ Hà Tĩnh19 của cụ Hãn? Cụ Hãn đã dịch ‘chuẩn‘ theo âm HV trong các mục Hypermétropeviễn thị 遠 視 (viễn ~ xa, thị ~ thấy), Hypermétropietật, tính viễn thị; Télémétrekính trắc viễn, … Cụ viết viễn ở các mục này nhưng lại là viện ở mục kính võng viện! Để ý Từ điển Việt Hoa Pháp của GUSTAVE HUE (1937) dịch téléscopeviễn kính, vọng viễn kính. Trước đó 1 năm cụ ĐÀO DUY ANH (1936), với kiến thức Hán học thâm trầm, đã dịch là kính viễn vọng; trước đó nữa thì BÉHAINE /TABERD, THEUREL đã ghi nhận các cách dùng viễn vọng 遠 望 (theo thứ tự chữ Hán Việt), huyền viễn, dao viễn (~ nhìn xa) nhưng không thấy dùng kính viễn vọng… Tiếng Nhật là Bōenkyō (bo ~ vọng, en ~ viễn, kyo ~ kính) so với tiếng Hàn mang-wongyeong cùng một gốc (mang ~ vọng, won ~ viễn, gyeong ~ kính)… Trước đó thì cụ TRƯƠNG VĨNH KÝ (1884) dịch là ống dòm, ống thiên lý; VALLOT (1898) dịch là thiên lý kính 千 里 鏡, ống dòm (để ý tiếng Hán còn dùng 召 鏡 triệu kính ~ telescope, triệu HV hàm ý đem hình ảnh lại gần cho thấy rõ hơn). Gần đây hơn – trong các Từ điển HV – học giả HOÀNG THÚC TRÂM (1950) dịch là viễn kính, viễn vọng kính, thiên lý kính; NGUYỄN VĂN KHÔN (1952): kiến viễn vọng; THANH NGHỊ (1961): kính viễn vọng, và cho đến ngày nay (2024) ta thường dùng kính viễn vọng /viễn vọng kính hay kính thiên văn.

telescope-vietnamhoc.net
Hình 15: TELESCOPE – Danh Từ Khoa Học (1942/1951) trang 174.

     Nguồn gốc của kính viễn vọng từ Âu Châu, vào đầu TK 17, còn được Vân Đài Loại Ngữ (sđd) trang 387-388 nhắc đến “DU TỬ LỤC nói: những nhà học độ số, ở các nước Tây phương, chế ra cái kính trông xa (võng viện kính), ống làm bằng da, dài ước hơn một thước, cả lớn lẫn nhỏ, độ bốn, năm cái, lồng vào nhau: để đầu cái ống kính nhỏ vào phía vật mà nhòm, thì vật to hoá nhỏ, để đầu cái ống kính lớn mà nhòm, thì vật nhỏ hoá to. Trông xa một trăm dặm, mà không có mây khói che lấp, có thể trông rõ người , thấy rõ cả râu, mày, vui cười. Cái ống nhòm này được đem vào Trung Quốc vào khoảng niên hiệu Vạn Lịch (1573 – 1619)“; hết trích.


Tài liệu tham khảo chính

1)  PIGNEAU DE BÉHAINE (1772/1773) – BÁ ĐA LỘC BỈ NHU, “Dictionarium Annamitico-Latinum”, dịch và giới thiệu bởi NGUYỄN KHẮC XUYÊN, NXB Trẻ (Thành Phố HCM – 1999). 

2)  PHILIPHÊ BỈNH (1822) “Sách Sổ Sang Chép Các Việc” NXB Viện Đại Học Đà Lạt, 1968.
PHILIPHÊ BỈNH (1822) “Phép Giảng Tám Ngày”, “Truyện nước Anam Đàng trong quyển nhị”. Các tài liệu viết tay khác của chính tác giả còn lưu trữ trong Thư viện tòa thánh La Mã.


3) JEAN BONET (1899) “Dictionnaire annamite-français : langue officielle et langue vulgaire” có thể tham khảo trên trang này https://www.lexilogos.com/vietnamien_dictionnaire.htm

4)  HUỲNH TỊNH CỦA (1895-1896) “Đại Nam Quấc Âm Tự Vị” Tome I, II, Imprimerie REY, CURIOL & Cie, 4 rue d’Adran (SaiGon).
5)  J. F. M. GÉNIBREL (1898) “Dictionnaire annamite français”, Imprimerie de la Mission à Tân Định (Sai Gon).
6)  TRẦN VĂN GIÁP (2006) “Vân Đài Loại Ngữ” tác giả LÊ QUÝ ĐÔN, TRẦN VĂN GIÁP phiên dịch và khảo thích, TRẦN VĂN KHANG làm sách dẫn, CAO XUÂN HUY hiệu đính và giới thiệu – NXB Văn Hoá Thông Tin (Hà Nội – 2006).


7)  JOHN E. GRIEVENKAMP /DAVID L. STEED (2011) “The History of Telescopes and Binoculars: An Engineering PerspectivePlenary paper – có thể đọc trên trang University of Arizona.


8)  Hội Khai Trí Tiến ĐứcBan Văn học (1931/1954) “Việt Nam Từ Điển” NXB Trung Bắc Tân Văn (Hà Nội). 
9)  NGUYỄN QUANG HỒNG (2015) “Từ điển chữ Nôm dẫn giải” Tập 1 và 2 – NXB Khoa Học Xã Hội /Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm (Hà Nội).


10) ALEXANDRE DE RHODES (1651) “Phép Giảng Tám Ngày” – Tủ Sách Đại Kết in lại từ Tinh Việt Văn Đoàn (1961 – Sài Gòn) với phần giới thiệu của tác giả NGUYỄN KHẮC XUYÊN.
ALEXANDRE DE RHODES (1651) “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” thường gọi là Từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của THANH LÃNG, HOÀNG XUÂN VIỆT, ĐỖ QUANG CHÍNH – NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố HCM (1991).

ALEXANDRE DE RHODES “Tường Trình về Đàng Trong 1645” bản dịch của HỒNG NHUỆ, NXB Ánh Sáng Publishing, Escondido (California/Mỹ, 1994?).
ALEXANDRE DE RHODES “Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm 1646” dịch giả NGUYỄN KHẮC XUYÊN – Tủ sách Đại Kết, Thành phố HCM (1994).


11) JEAN LOUIS TABERD (1838) – tên Việt là CỐ TỪ – “Dictionarium Annamitico-Latinum” Serampore (Bengale) và cuốn Từ điển La Tinh–Việt (Dictionarium Latino-Annamiticumcompletum et novo ordine dispositum – 1838).

12)  J. S. THEUREL (1877) “Dictionarum Anamitico-Latinum” LM THEUREL ghi nhận LM TABERD khởi thảo và ông cố tình ‘bổ sung’ ngay trong cách giới thiệu trang đầu, (td. hàm ý các cách dùng Đàng Ngoài khác với Đàng Trong/NCT) – Ninh Phú (Đàng Ngoài).

13)  NGUYỄN CUNG THÔNG (2013) “Tản mạn về từ Hán Việt – phần 6.2“.


GHI CHÚ :
◊  Tài liệu tham khảo chính của Bài viết này là các Tài liệu chép tay của LM PHILIPHÊ BỈNH (sđd) và bốn (4) Tác phẩm của LM DE RHODES soạn :

(a)  cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN),
(b)  Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC),
(c)  Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài 1627-1646,
(d)  Từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra Từ điển này trên mạng, như trang Dictionarium Annnamiticum Lusitanum et Latinum.


◊  Các chữ viết tắt :


NCTNguyễn Cung ThôngNKVTNgũ Kinh Văn Tự /776
HVHán ViệtLKTGLong Kham Thủ Giám /997
VNViệt NamQVQuảng Vận /1008
ĐNAĐông Nam ÁTVTập Vận /1037/1067
LMLinh MụcTNAVTrung Nguyên Âm Vận /1324
CGCông GiáoCVChính Vận /1375
PGPhật GiáoTViTự Vị/ 1615
TVGTThuyết Văn Giải Tự /khoảng 100 SCNVBVận Bổ /1100/1154
NTNgọc Thiên /543VHVận Hội /1297
ĐVĐường Vận /751LTLoại Thiên /1039/1066
CTTChính Tự Thông /1670KHKhang Hi /1716
TViBTự Vị Bổ /1666Ptiếng Pháp
TTTHTứ Thanh Thiên HảiAtiếng Anh
VNTĐViệt Nam Tự Điển /Hội Khai Trí Tiến ĐứcLtiếng La Tinh
ĐNQATVĐại Nam Quấc Âm Tự Vi /1895

◊ Kí, kì còn có thể viết là ký /kì ( ~ tên người, tên sách) và trang /cột /tờ của VBL được trích lại từ bản La Tinh để người đọc tiện tra cứu thêm.

◊  Tương quan Hán Việt ghi nhận trong Bài không nhất thiết khẳng định nguồn gốc của các từ liên hệ (có gốc Việt cổ hay Hán cổ).

CHÚ THÍCH :
1*NGUYỄN CUNG THÔNGNhà nghiên cứu ngôn ngữ độc lậpMelbourne (Úc) – là một Kỹ sư cơ khí tốt nghiệp Trường Đại học Melbourne, Úc; sau đó, ông lấy thêm bằng Sư phạm của Trường Đại học Sư phạm Melbourne và học ngành Ngôn ngữ tại Trường Đại học Queenslandngành Giáo dục tại Trường Đại học Monash.

     Ông luôn đeo đuổi các Dự án nghiên cứu về Ngôn ngữ từ khi qua Úc và hy vọng trong tương lai có thể tìm ra được để xác nhận, liệt kê các tiếng Việt cổ biểu hiện các súc vật từ trong vốn từ chữ Hán (thường bị đào thải và trở nên hiếm dùng và do yếu tố tâm linh, tín ngưỡng mà các chữ Tý, Sửu, Dần, Mão, … vẫn trường tồn trong quảng đại quần chúng).

◊  MỜI XEM THÊM CHI TIẾT:  Học giả NGUYỄN CUNG THÔNG


2*ALEXANDRE DE RHODES, A-lịch-sơn Đắc Lộ (15/3/1593, Avignon, Lãnh địa Giáo hoàng (nay thuộc Pháp) -5/11/1660 /69 tuổi, Isfahan, Ba Tư)Nhà truyền giáo Dòng Tên, Nhà ngôn ngữ học người Pháp.

◊  MỜI XEM THÊM CHI TIẾT:  ALEXANDRE DE RHODES


3*:  cái soi là cái kính coi mặt, cái kiến con mắt (ĐNQATV) để ý kiến không có g. Lần đầu người viết (NCT) rất ngạc nhiên khi nghe người Rạch Giá (miền Nam VN) dùng cái soi để chỉ kính, nhưng nghe nhiều thì cũng quen.


4*: PIERRE JOSEPH GEORGES PIGNEAU DE BEHAINE (2/2/1741, Origny-en-Thiérache, Aisne, Hauts-de-France, Pháp – mất 9/10/1799, Quy Nhơn, Bình Định, lúc 57 tuổi); tên viết tắt là Pigneau de Behaine; tên Việt là Giám mục BÁ ĐA LỘC (百 多 祿) hay Bách Đa Lộc, còn gọi là Cha Cả, là Giáo sĩ người Pháp được Nguyễn Vương NGUYỄN PHÚC ÁNH trọng dụng trong khi tranh đấu lấy lại quyền lực từ tay nhà Tây Sơn vào cuối thế kỷ thứ 18. Ông được phong làm Giám mục hiệu tòa Adran nên được gọi là Giám mục ADRAN. Sách sử Việt Nam thời nhà Nguyễn còn dùng danh hiệu Bi Nhu (gọi theo âm Pigneau) Quận công – là sắc phong do vua GIA LONG ban – để gọi tên ông.

◊  MỜI XEM THÊM CHI TIẾT:  Cha Cả PIERRE JOSEPH GEORGES PIGNEAU DE BEHAINE


5*Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa (指 南 玉 音 解 義) là cuốn Từ điển Hán-Nôm cổ nhất trong lịch sử tiếng Việt, được biên soạn vào năm Tân Tỵ (giữa thế kỷ 15~18 /năm 1401). Viện Viễn Đông Bác cổ, Viện Nghiên cứu Hán NômHiệp hội Châu Á đang lưu 3 bản gốc cổ nhất của sách này. Cuốn Từ điển này giúp cho những người đi theo con đường khoa cử và những người muốn đọc các kinh sách nhà Phật. Tác phẩm này có tổng cộng 3.394 mục từ chữ Hán – mỗi mục đều có lời bị chú bằng chữ Nôm để làm sáng rõ nghĩa – và 82% các chữ Nôm trong Từ điển là loại chữ giả tá mượn âm, và 18% là chữ ghép. (theo TRẦN XUÂN NGỌC LAN) bổ nghĩa cho cuốn Chỉ nam phẩm vị (指 南 品 彙) do SĨ NHIẾP soạn thuở trước. Đến nay! Tác giả của cuốn Từ điển này vẫn chưa rõ.


6* An Nam Dịch Ngữ (Vương Lộc giới thiệu và chú giải) NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng (1995).

     An Nam dịch ngữ (安 南 譯 語) là loại Từ điển loại thư đối chiếu 716 từ vựng Hán–Việt được soạn vào thế kỷ 16 bởi Tứ Di QuánCơ quan thông dịch, phiên dịch của triều Minh (1368- 1644). Bộ sách này có 7 bản và được lư giữ tai: Thư viện Đại học Luân Đôn (London); bản Dương Thủ Kính tại Trường Viễn Đông bác cổ Pháp, Hà Nội; bản Tĩnh Gia đường (gồm 11 Sách dịch ngữ), bản Đạo Diệp (hay Nội Đằng, gồm 11 sách), bản A Ba Quốc (13 quyển) và bản Cận Đằng (13 quyển) và bản tại Viện Khảo cổ học Việt Nam. Bộ sách có 17 loại môn bao gồm: 1) Thiên văn môn có 52 mục từ; 2) Địa lý môn có 46 mục từ; 3) Thời lệnh môn có 86 mục từ; 4) Hoa mộc môn có 59 mục từ 5) Điểu thú môn có 62 mục từ; 6) Cung thất môn có 25 mục từ; 7) Khí dụng môn có 54 mục từ; 8) Nhân vật môn có 58 mục từ; 9) Nhân sự môn có 46 mục từ; 10) Thân thể môn có 47 mục từ; 11) Y phục môn có 31 mục từ; 12) Ẩm thực môn có 53 mục từ; 13) Trân bảo môn có 30 mục từ; 14) Văn sử môn có 12 mục từ; 15) Thanh sắc môn có 14 mục từ; 16) Số mục môn có 13 mục từ; 17) Thông dụng môn có 28 mục từ. Bộ sách sử dụng các âm Hán trung đại để ghi âm tiếng Việt. Văn bản này bảo lưu nhiều dấu vết ngữ âm của thế kỷ 16 và bảo lưu một số tổ hợp phụ âm đầu trong tiếng Việt.


7:  So với nghĩa của chữ tí /tứ ~ dò xét. Nét nghĩa này cũng hiện diện trong cách dùng tư thiên 司 天 trong VBL (quan tư thiên xem xét các vấn đề tính toán như thời giờ, nhật và nguyệt thực/thiên văn …v.v…).

8:  Theo GS VƯƠNG LỘC thì dạng cương cũng hiện diện trong phương ngữ Bắc Trung Bộ (xem ghi chú An Nam Dịch Ngữ, sđd).


9:  Điều này cho thấy LM DE RHODES đã soạn PGTN với một người VN (bản địa) rành tiếng Việt, hay soạn VBL dựa vào các tài liệu tiếng Việt căn bản (thực tế và đơn giản) cần thiết trong buổi đầu truyền giáo.

10Thuỷ tinh tiếng Trung Hoa pha lê (li) 玻 璃 hay lưu ly 琉 璃, td. cửa kínhpha lê /li song 玻 璃 窗.


11Gương soi từng được dùng trong các phép thuật phù thuỷ hay bói toán, phong thuỷ trong một số văn hoá cổ đại, lý do là người trước thường tin vào khả năng siêu việt của gương soi khi phản chiếu ánh sáng và tạo ra hình ảnh trong gương: td. trừ tà ma, xua đuổi ám khí, … Dĩ nhiên là thời bấy giờ chưa biết đến các định luật vật lý (Quang học) về hiện tượng phản chiếu ánh sáng từ một mặt bóng láng (mặt kính).


12:  VBL ghi mục cũng đọc là mộc.
13:  Tham khảo chi tiết trang Scorpus Spoken Taiwan.
14:  “Khảo cứu từ điển song ngữ Đại Nam Quốc Ngữ – nguyên bản NGUYỄN VĂN SAN” khảo /phiên /dịch /chú LÃ MINH HẰNG – NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội (2013).


15Minh Tâm Bửu Giám là tài liệu chữ Hán đầu tiên được dịch ra tiếng Âu Châu (td. năm 1590 được dịch ra tiếng Tây Ban Nha bởi LM Dòng Đa Minh JUAN COBO). Các bản dịch khác cũng hiện diện và lưu hành trước đó ở Á Đông như Đại Hàn, Việt Nam, …, v.v…


16:  Td. các học giả HUỲNH TỊNH CỦA (1895), NGUYỄN VĂN KHÔN (1955) ghi dạng kiến (không có -g).
17:  Tham khảo Bài viết (2013) “Head-On Intersection of East and West: The Overlooked History of Galileo in China” của tác giả JEREMY SCHREIER chẳng hạn – đăng trong Tạp chí Intersect: The Stanford Journal of Science, Technology, and Society. 6 (2).


18:  “Danh Từ Khoa Học” HOÀNG XUÂN HÃN soạn – in lần thứ nhất, NXB Imprimerie Trung Bac (Hà Nội, 1942). Các bản in và cập nhật lần sau như do NXB Vĩnh Bảo (Sài Gòn) in năm 1948, hay NXB Minh Tân in năm 1951 (có thêm Phụ trương) đều ghi là kính võng viện – tham khảo bản in lần thứ ba trên trang Danh từ Khoa học.


19:  Giọng Nghệ Tĩnh phổ biến chỉ có 5 thanh (không phát âm được thanh ngã (~), thanh ngã (~) thường nhập với thanh nặng (.) giải thích được phần nào vọng > võng, viễn > viện …, v.v… Theo anh bạn TS PHẠM QUANG TUẤN (Sydney, Australia) thì có thể cụ HÃN đã vô tình nói lái người viết (NCT) còn đề nghị một khả năng khác là freudian slip (trượt lưỡi Freud /nói nhầm một cách vô ý /lỡ lời khi dùng tiếng nói địa phương của mình).


GHI CHÚ :
◊  Nguồn:  Tác giả gửi bài trực tiếp đến Ban Tu Thư.
◊  Các Chú giải 1~6* và một số ‘biên tập nhẹ‘ do Ban Tu Thư thực hiện.
◊  Tải Pdf gốc về xem:  TIẾNG VIỆT từ TK 17: Các cách dùng Cái đồng, Kính, Gương, … Chiếu kính, soi gương, soi đồng, Ống dòm (Phần 45) – NGUYỄN CUNG THÔNG.

BAN TU THƯ
bantuthu1965@gmail.com
6 /2024

(Visited 7 times, 1 visits today)