Vài đóng góp của TỰ ĐIỂN BÉHAINE trong Văn hoá ngôn ngữ Việt Nam – Phần 2

Vài đóng góp của TỰ ĐIỂN BÉHAINE trong Văn hoá ngôn ngữ Việt Nam – Phần 2

NGUYỄN CUNG THÔNG 1*
(Tác giả gửi bài trực tiếp đến Ban Tu Thư vietnamhoc.net)

… (tiếp theo Phần 1):

1.4  Con công chẳng giống lông thì giống cánh

chim.cong-vietnamhoc.net
Chim công đang bay – trích từ trang Animal.

    Con công trong câu tục ngữ này đã ‘nhân cách hoá’ và ‘tổng quát hoá‘ thành con nhà tông để cho ra dạng phổ thông hiện nay là con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Từ sự quan sát chi tiết và cụ thể của loài công, tiền nhân ta đã để lại kí ức tập thể trên qua câu tục ngữ này: loài công (đực) có một bộ cánh rất sặc sỡ và óng ánh, các thế hệ sau của loài chim này cũng mang theo đặc tính này8 (gen di truyền từ đời này sang đời kia)

      Dân tộc khác cũng có những quan sát tế nhị như trên, như người Đức còn có ngạn ngữ “này các con công, hãy nhìn lại hai chân của chính mình (tạm dịch /NCT – Pfauen, schaut auf eure Füße)(hàm ý thực tế thì không hoàn toàn đẹp đẽ và hoành tráng như cánh /lông mình khoa trương). Vài điểm đáng chú ý là từ phủ định chẳng9 trong TVL đã hay bằng không trong tiếng Việt hiện đại, ngoài ra con công gọi là chim công10 vào thời Việt Bồ La (1651). Con công chẳng giống lông thì giống cánh viết bằng chữ Nôm vào thời TVL Taberd 昆 公 庄 種 (竜 羽) 時 種 𦑃: chữ công kí âm trực tiếp bằng chữ công11 HV (nghĩa HV là chung, đực /trống, tước công…)cũng như dạng chữ Nôm trong Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa. Chữ Nôm hậu kì thường thêm vào thanh phù công bộ điểu để cho rõ nghĩa hơn (như trong Lý Hạng Ca Dao, Giai Cú…). Con công có lý hơn trong tục ngữ này vì lông cánh khó mà liên hệ đến loài người được (“con nhà tông”) tuy tông có cùng vần với công lông.

sinh.cung-taberd-vietnamhoc.net
                     Béhaine (1772 /1773)
sinh-cung-taberd-vietnamhoc.net
                                  Taberd (1838)
cung-theurel-vietnamhoc.net
                                                                     Theurel (1877)

1.5  Xa cừ

     Xa cừ là vỏ của loài ốc biển (gọi là ốc xa cừ, ốc mặt trăng, ốc mắt ngọc) dùng làm trang trí cũng như một hải sản có giá trị kinh tế cao. TVL ghi rõ là xa cừ 車 渠 (LM Taberd ghi lại y như TVL). Xa là đọc đúng theo âm HV: chữ xa (thanh mẫu xương vận bộ ma khai khẩu tam đẳng, bình thanh) có các cách đọc theo phiên thiết 尺 遮 切 xích già thiết (NT, QV, TTTH) – Bác Nhã 博 雅 ghi xa cừ xuất phát từ Thiên Trúc (Ấn Độ). Các tài liệu đều ghi chữ xa (bộ thạch) chỉ dùng trong cụm danh từ xa cừ 硨 磲. KH ghi thêm xa cừ còn viết là 車 渠.

         昌 遮 切 xương già thiết (TV, LT, VH, CV).

         音 車 âm xa (LKTG, CV).

           CV ghi cùng vần /bình thanh xa 車 硨 .

           Giọng Bắc Kinh (BK) bây giờ là chē (theo pinyin) so với giọng Quảng Đông ce1 và các giọng Mân Nam 客 家 话:[客 英 字 典] cha1 [台 湾 四 县 腔] ca1 [梅 县 腔] cha1 [海 陆丰 腔] cha1 [潮 州 话]:cia1, tiếng Nhật shatiếng Hàn cha.

    Tuy nhiên, LM THEUREL (Đàng Ngoài, 1877) lại ghi là xà cừ và cũng là cách dùng thông dụng trong tiếng Việt ngày nay – tuy phần giải thích bằng tiếng La Tinh thì chép lại y như Tự điển Taberd – xem các hình chụp bên dưới :

xa.cu-behaine-vietnamhoc.net
                    Béhaine (1772/1773, sđd)
xa.cu-taberd-vietnamhoc.net
                         Taberd (1838, sđd)

      Trong quyển Nhật Dụng Thường Đàm, tác giả PHẠM ĐÌNH HỔ 7* (1768-1839) viết “xa cừ là ốc xa cừ(xem hình chụp bên dưới) – cũng như tác giả NGUYỄN VĂN SAN 8* trong Đại Nam Quốc Ngữ viết “xa cừ ốc xa cừ” với chữ xa viết là xa HV , tuy nhiên ngay sau đó lại viết xa bộ ngọc (như Nhật Dụng Thường Đàm, xem hình chụp bên dưới). Các dữ kiện bằng chữ Nôm này cũng cho thấy xa cừ là cách đọc vào cuối TK.18 và đầu TK.19. Khuynh hướng đọc xa cừ thành xà cừ có thể là kết quả của quá trình điều hoà thanh điệu, hay là đồng hoá thanh điệu (tone assimilation/A) trong ngôn ngữ. Một trường hợp nữa ghi trong mục của TVL là lư đừ > lừ đừ (tiếng Việt bây giờ, cùng âm điệu). So sánh các kết quả điều hoà thanh điệu như sau :

+  Khiếu13nại > kêu nài > kèo nài (cùng âm điệu);
+  Hắc yên14 > hắc *in > hắc ín (~ nhựa đường, ín cùng âm điệu với hắc);
+  Kí Hoà > Kì Hoà (địa danh miền Nam);
+  câu đáng > câu đang (câu đương);
+  Huyền Tráng /Tảng > Huyền Trang (pháp sư TQ);
+  Chúng cư > chung cư (trong cách dùng quần chúng, dân chúng, chúng sinh …);

+  điền kính15 > điền kinh (nhưng vẫn dùng đường kính);
+  Cá *đuôi > cá đuối (cá có đặc điểm là đuôi dài…);
+  Nước *miệng > nước miếng…, v.v…

xa.cu-nht.dung.thuong.dan-vietnam.hoc.net
Nhật Dụng Thường Đàm (sđd) chữ Nôm: xa cừ là ốc xa cừ.
xa.cu*-theurel-vietnamhoc.net
                          Theurel (1877, sđd)
xa.cu-vallot-vietnamhoc.net
                 Vallot (Đàng Ngoài, 1898)
xa.cu-genibrel-vietnamhoc.net
               Génibrel (Đàng Trong, 1898)

      Một điểm đáng chú ý là trong Tam Thiên Tự16 (khoảng cuối TK.18) thì ghi xa cừ với chữ Nôm xa viết bằng bộ ngọc hợp với chữ xa , còn Ngũ Thiên Tự17 (khoảng đầu TK.20) ghixà cừ 蛇 渠 cho thấy âm xa đã trở thành ngay trong cách dùng chữ Nôm. Điều này phù hợp với các dữ kiện chữ Quốc ngữ bên trên.

1.6  Cúng /cung dưỡng

     Cúng18 dưỡng đã hiện diện trong TVL (mục dưỡng – xem hình chụp bên trên) và giữ nguyên dạng này trong tự điển của các LM TABERD và THEUREL. Cúng dưỡng liên hệ đến cung dưỡng HV 供 養, hàm ý phụng dưỡng nuôi nấng đã hiện diện trong các tài liệu Hán cổ như Chiến Quốc Sách, Lễ Kí (Nguyệt Lệnh), sau này mới dùng đặc biệt cho Phật Giáo19 (td. trong Kinh Hoa Nghiêm) để chỉ hoạt động cúng bái Phật/Pháp/Tăng như hoa quả, ẩm thực …, v.v… Bây giờ thì dạng cúng dường phổ thông trong tiếng Việt so với các dạng khác là cúng dàng20 (Việt Nam Tự Điển, sđd). Dạng cúng dường đã xuất hiện trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (1895, sđd) của học giả HUỲNH TỊNH CỦA.

      Các biến âm như dàng, dường từ âm HV dưỡng so với các cách đọc chữ dưỡng HV (thanh mẫu dĩvận mẫu dương thượng/khứ thanh, khai khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết :

餘 兩 切  dư lưỡng thiết (TVGT, QV);
余 掌 切  dư chưởng thiết (NT, TTTH);
餘 掌 反  dư chưởng phản (NTLQ 玉 篇 零 卷);

以 兩  切 dĩ lưỡng thiết (TV, LT, VH, CV) – TV ghi tượng thanh;
餘 亮 切  dư lượng thiết (QV, CV).
弋 亮 切, 音 恙  dặc lượng thiết, âm dạng (TV, LT) – TV ghi khứ thanh.

       TNAV ghi vận bộ/thượng thanhkhứ thanh 江 陽 (giang, dương).   
       CV ghi cùng vần/thượng thanh 養 懩 瀁 癢 (dưỡng).
       CV cũng ghi cùng vần/khứ thanh 漾 瀁 羕 恙 養 煬 颺 㨾 (dạng dượng).

      Giọng BK bây giờ là yǎng (theo pinyin) so với các giọng Mân Nam 客 家 话:[沙 头 角 腔]  jong1 [梅 县 腔]  jong1 [客 英 字 典]  jong3 [陆 丰 腔]  jong1 [海 陆 丰 腔] rong1 rong3 [东 莞 腔]  jong1 [台 湾 四 县 腔]  jong1 jong3 [宝 安 腔]  jong1 [客语 拼 音 字 汇]  yong, tiếng Nhật tiếng Hàn yang.

      Điều quan trọng từ các dữ kiện ngữ âm trên là dưỡng HV không có khi nào là bình thanh (td. dường, dàng).
      Tóm lại, TVL là một nguồn dữ liệu quan trọng cho ta biết ca dao tục ngữ qua dạng chữ Quốc ngữ đầu tiên trong tiếng Việt.
      Ít người biết câu tục ngữ :

+  “Có công mài sắt có ngày nên kim” vào giữa TK.18 lại là “Chí công mài sắt chầy ngày nên kim(khác biệt 21 khoảng 37.5%),

+  “giả mù sa /ra mưa” từng là “giả mù pha mưa(khác biệt 25%);

+  “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” từng là “Con công chẳng giống lông thì giống cánh(khác biệt 44.4%);

+  “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” từng là “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây(khác biệt 17%);

+ và “xà cừ” từng có dạng nguyên thuỷ là “xa cừ“;

+  “cúng dường” từng có gốc HV là “cung/cúng dưỡng(khác biệt thanh điệu).

      Nhờ vào TVL mà ta có các dữ kiện để tra cứu nguồn gốc cách dùng và âm vận một cách chính xác hơn. Đây chỉ là vài trường hợp điển hình cho ta biết được phần nào quá trình biên soạn TVL, phản ánh qua câu “tục ngữ hằng đàm(mục đàm, TVL) được ghi lại trong chính tài liệu này. TVL là một kết quả giao thoa giữa hai khái niệm tự điểntừ điển. Không những thế, so sánh tiếng Việt trong TVL và các tài liệu sau đó viết bởi LM BÉHAINE như “Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ” và Tự điển Taberd cho ta thấy sự thay đổi trong cách dùng liên tục (td. ngày Du Minh > ngày Chúa nhật > chủ nhật). LM TABERD cũng thêm các câu tục ngữ vào nguyên bản TVL khi cập nhật như thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi …, v.v…

     Cũng dựa vào TVL, so sánh tiếng Việt trong Tự điển Taberd Đàng TrongTheurel Đàng Ngoài cũng cho thấy khác biệt trong phương ngữ các miền. Ngay cả vào thời LM BÉHAINE và TABERD, Đàng Trong có câu quen dái dạ, lạ dái áo22 (TVL mục dái) thì Đàng Ngoài – qua ngòi bút của cụ Philiphê BỈNH 9* trong Sách sổ sang chép các việc (sđd, trang 159) – có một dạng là quen thì dái dạ, lạ thì dái áo.

      Hi vọng bài viết nhỏ này gợi ý cho người đọc tìm hiểu và khám phá thêm nhiều kết quả thú vị trong TVL, cũng như cho thấy các đóng góp của tài liệu này – không những từ lăng kính cấu trúc chữ Quốc ngữ (khá ổn định từ thời TVL đến nay) – mà từ những góc cạnh khác hơn như văn hoá ngôn ngữ VN vào TK.18/19 cụ thể là qua các câu ca dao tục ngữthành ngữ tiếng Việt trong TVL. Tuy soạn giả là người CG và do đó có nhiều thuật ngữ CG cổ như sinh thì (qua đời, thuật ngữ CG cổ), Đức Thánh Pha Pha (bây giờ gọi là Đức Giáo Hoàng), Lâm Bô… Nhưng cũng hiện diện nhiều cách dùng PG như A Di Đà Phật, cúng dưỡng, Tây Phương Phật trong TVL… Thành ra, TVL đã cung cấp nhiều dữ kiện quý báo cho lịch sử tiếng Việt cách đây khoảng vài ba thế kỉ.


CHÚ THÍCH :
1NGUYỄN CUNG THÔNG – Nhà nghiên cứu ngôn ngữ độc lập (Melbourne, Australia) – địa chỉ email : nguyencungthong@gmaịlcom 


3 … 8:  xem ở Vài đóng góp của TỰ ĐIỂN BÉHAINE trong Văn hoá ngôn ngữ Việt Nam – Phần 1.

9:  Cũng chính đặc điểm này của con công đã làm nhà bác học CHARLES DARWIN mất ăn mất ngủ: tại sao lông /cánh con công ngăn cản hoạt động như chạy hay bay của loài này, nhưng chúng vẫn còn sống cho đến ngày nay? DARWIN đề nghị một cách lý giải dựa vào sự chọn lọc tình dục (sexual selection – con mái thích con trống khoe lông /cánh khi xoè ra) thêm vào sự chọn lọc tự nhiên của loài mạnh nhất trong việc đấu tranh sinh tồn.


10:  Xem thêm chi tiết về thể phủ định tiếng Việt trong bài viết (cùng tác giả /NCT)Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng đừng, chẳng khi nào đừng, chẳng có khi đừng (phần 35)” trên trang mạng …, v.v…

11:  Để ý thêm cách dùng cái chim công như “Khổng tước thật là hiệu cái chim công” trang 173 “Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa” HOÀNG THỊ NGỌ khảo cứu, phiên âm, chú giải – NXB Văn Học (2016, Hà Nội); “Khổng tước chim công(Đại Nam Quốc Ngữ, sđd). Điều này cho thấy tục ngữ “con công chẳng giống lông thì giống cánh” qua cách dùng con công có khả năng xuất hiện sau thời Chỉ Nam Ngọc ÂmViệt Bồ La.


12:  Để ý chí công viết chữ Nôm志 功 chứ không phải là 至 公 (chí công ~ rất công bình, cũng như chí thân, chí lý, chí khổ, chí ác, …). Đây là một khuyết điểm của chữ Quốc ngữ dựa vào các mẫu tự La Tinh /Bồ mang tính chất độc đoán cao (arbitrariness/A).

13Khiếu HV đọc là 吉 弔 切 cát điếu thiết (ĐV, CV) hay cổ điếu thiết 古 弔 切 (TV, VH) luôn là thượng thanh.
14Yên HV đọc là ô tiền thiết 烏 前 切 (ĐV), nhân liên thiết 因 蓮 切 (TV, VH) luôn là bình thanh.
15 có thể đọc là kính (古 定 切 cổ định thiết /TV) hay kinh (堅 靈 切 kiên linh thiết /TV).


16:  “Tam Thiên Tự” ĐOÀN TRUNG CÒN biên soạn, NXB Văn Hoá Thông Tin (2003, Thành Phố HCM).
17:  “Ngũ Thiên Tự” VŨ VĂN KÍNH, Khổng Đức biên soạn – NXB Văn Hoá Thông Tin (2001 – Thành Phố HCM).
18:  Chữ đọc là cung (居 容 切 cư dung thiết /TV/VH) nhưng cũng đọc là cúng (居 用 切 cư dụng thiết /TV/VH).

19:  Tham khảo chi tiết nghĩa của cung dưỡng theo Phật Giáo từ Từ Điển Phật Quang chẳng hạn …
20Thượng toạ THÍCH CHÂN TÍNH còn cho biết các dạng khác của cúng dường như cúng vườn, cúng giường – xem chi tiết trong bài viết Cúng Dường.


21:  Đương nhiên có những cách dùng bây giờ hoàn toàn giống như thời TVL như “tay làm hàm nhai(mục nhai trong TVL), “gần mực thì đen gần đèn thì sáng(mục đen trong TVL), “ngựa quen đường cũ(mục quen) … Hay có những cách dùng không còn thấy ai nhắc tới nữa như “lửa xe nước gáo(mục lửa)thần tỉnh mô khán“…, v.v…

21Dáisợ, e – VBL đã từng ghi nét nghĩa này (timeo La Tinh) cùng với nét nghĩa hòn dái. Nét nghĩa thứ nhất đã không còn dùng nữa trong tiếng Việt hiện đại (chỉ còn bảo lưu qua tục ngữ Quen dái dạ, lạ dái áo) so với nét nghĩa thứ nhì.


CHÚ GIẢI :
1*NGUYỄN CUNG THÔNG là một kỹ sư cơ khí tốt nghiệp Trường Đại học Melbourne, Úc; sau đó, ông lấy thêm bằng Sư phạm của Trường Đại học Sư phạm Melbourne và học ngành Ngôn ngữ tại Trường Đại học Queensland, ngành Giáo dục tại Trường Đại học Monash.

     Ông luôn đeo đuổi các Dự án nghiên cứu về Ngôn ngữ từ khi qua Úc và hy vọng trong tương lai có thể tìm ra được để xác nhận, liệt kê các tiếng Việt cổ biểu hiện các súc vật từ trong vốn từ chữ Hán (thường bị đào thải và trở nên hiếm dùng và do yếu tố tâm linh, tín ngưỡng mà các chữ Tý, Sửu, Dần, Mão, … vẫn trường tồn trong quảng đại quần chúng).

◊  MỜI XEM THÊM CHI TIẾTHọc giả NGUYỄN CUNG THÔNG


7*:  PHẠM ĐÌNH HỔ ( 范 廷 琥, 1768, làng Đọc, hương Đan Loan, phủ Thượng Hồng, huyện Đường An, trấn Hải Dương /thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương ngày nay – 1839, 71 tuổi), tự Tùng Niên ( 松 年 ), Bỉnh Trực (秉 直 ), bút hiệu Đông Dã Tiều ( 東 野 樵 ), biệt hiệu Chiêu Hổ tiên sinh ( 昭 琥 先 生 ), Diệc Hiên tiên sinh, danh sĩ, giảng sư, Thừa chỉ Viện Hàn Lâm (năm 1826), Tế tửu Quốc Tử Giám, …

◊  MỜI XEM THÊM CHI TIẾTTiên sinh PHẠM ĐÌNH HỔ


8*NGUYỄN VĂN SAN (1808, làng Đa Ngưu, xã Tân Tiến, huyện Văn Giang – 1883, 75 tuổi), tên húy là Đăng, tự Hải Châu, hiệu Văn Sơn, biệt hiệu Văn Đa Cư Sĩ.

     Ông thông minh đĩnh ngộ, ham học hỏi từ nhỏ. Ông đỗ Tú tài 6 khoa mà không ra làm quan, lui về quê dạy học, viết sách. Ông tham gia các Học hội như Thành Chương hội, Quế Giang hội, …; làm Hội trưởng Hội Thành Chương, Hội trưởng Hội Như Lan Phương Đình, Vân Đình.


9*PHILIPHÊ BỈNH (1759, xứ Hải Dương, phủ Hạ Hoàng, huyện Vĩnh Lại, xã Ngãi An, thôn Địa Linh – 1832, Bồ Đào Nha), tên thánh là Felippe do Rosario, linh mục dòng Tên. Ông đi tu và học ở Trường Kẻ Vĩnh (năm 1775) và được thụ phong Linh mục (năm 1793). Ông sang Bồ Đào Nha (năm 1793) xin vua Bồ Đào Nha can thiệp với Toà thánh La Mã bãi bỏ lệnh đóng của dòng Tên Việt Nam. Công việc thất bại nên ông phải sống lưu vong ở Bồ Đào Nha và đã viết hơn 20 cuốn sách bằng chữ Quốc Ngữ, bao gồm những đề tài biên khảo như tự điển, ký sự, nhật ký, …, Sách sổ sang chép các việc (1822) – bộ sách được viết bằng chữ Quốc ngữ khá sớm của Việt Nam – còn được lưu trữ ở Thư viện Vatican.


TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1)  PIGNEAU DE BÉHAINE (1772/1773) – Bá Đa Lộc Bỉ NhuDictionarium Annamitico-Latinum” Dịch và giới thiệu bởi NGUYỄN KHẮC XUYÊN, NXB Trẻ (Thành Phố HCM – 1999). Có thể tham khảo bản chép tay trên mạng như: Dictionarium Anamitico Latinum Pigneaux.
    PIGNEAU DE BÉHAINE  “Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ聖 教 要 理 國 語 (khoảng 1774) có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như: Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ

2)  Philiphê  BỈNH (1822) “Sách Sổ Sang Chép Các Việc”, NXB Viện Đại Học Đà Lạt, 1968.
    Philiphê  BỈNH (1822) “Phép Giảng Tám Ngày”, “Truyện nước Anam Đàng trong quyển nhị” … Các tài liệu viết tay của chính tác giả còn lưu trữ trong Thư viện Tòa thánh La Mã.

3)  HUỲNH TỊNH CỦA (1895/1896) “Đại Nam Quấc Âm Tự Vị” Tome I, II – Imprimerie Rey, Curiol & Cie, 4 rue d’Adran (SaiGon) có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như: Đại Nam Quấc Âm Tự Vị

4)  J. F. M. GÉNIBREL (1898). “Dictionnaire annamite français”,  Imprimerie de la Mission à Tân Định (SaiGon) – có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như: Dictionnaire annamite français.

5)  PHẠM ĐÌNH HỔ (1827). Nhật dụng thường đàm (日 用 常 談) – có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như: Nhật dụng thường đàm.

6)  Hội Khai Trí Tiến ĐứcBan Văn học (1931/1954).Việt Nam Tự Điển”, NXB Trung Bắc Tân Văn (Hà Nội) – có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như: Việt Nam Tự Điển.

7)  NGUYỄN QUANG HỒNG (2015). “Tự điển chữ Nôm dẫn giải” Tập 1 và 2 – NXB Khoa Học Xã Hội /Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm (Hà Nội) – có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như: Tự điển chữ Nôm dẫn giải.

8)  PHAN KHÔI (1954). “Việt ngữ nghiên cứu”, NXB Đà Nẵng, in lại.

9)  JOSEPHO MARIA MORRONE (khoảng đầu TK.19).Lexicon Cochin-sinense Latinum” đăng trong cuốn “A Dissertation on the nature and character of the Chinese system of writing” viết bởi nhà ngôn ngữ Mỹ PETER STEPHEN DU PONCEAU (1838), in lại bởi NXB Kessinger Publishing. Kèm thêm bảng từ vựng căn bản có 333 chữ Nômchữ Quốc ngữ với giải thích về cấu trúc và nghĩa – có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như: Lexicon Cochin-sinense Latinum.

10)  ALEXANDRE DE RHODES (1651). “Phép Giảng Tám Ngày” – Tủ Sách Đại Kết in lại từ Tinh Việt Văn Đoàn (1961–Sài Gòn) với phần giới thiệu của tác giả NGUYỄN KHẮC XUYÊN – có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như: Phép Giảng Tám Ngày
    ALEXANDRE DE RHODES (1651). “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” thường gọi là Từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của THANH LÃNG, HOÀNG XUÂN VIỆT, ĐỖ QUANG CHÍNH – NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố HCM (1991) – có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như: Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum
    ALEXANDRE DE RHODES. “Tường Trình về Đàng Trong 1645” bản dịch của HỒNG NHUỆ, NXB. Ánh Sáng Publishing, Escondido (California /Mỹ, 1994?)
    ALEXANDRE DE RHODES. “Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm 1646dịch giả NGUYỄN KHẮC XUYÊN – Tủ sách Đại Kết, Thành phố HCM (1994).

11) JEAN LOUIS TABERD (1838) – tên Việt cố Từ – “Dictionarium Annamitico-Latinum” Serampore (Bengale)và cuốn Tự điển La Tinh – Việt (1838) – có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như : Tự Điển Taberd.

12)  J. S. THEUREL (1877). “Dictionarum Anamitico-Latinum” LM Theurel ghi nhận LM TABERD khởi thảo và ông cố tình ‘bổ sung’ ngay trong cách giới thiệu trang đầu, (td. hàm ý các cách dùng Đàng Ngoài khác với Đàng Trong/NCT)Ninh Phú (Đàng Ngoài) – có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như: Dictionarum Anamitico-Latinum.

13)  NGUYỄN CUNG THÔNG (2021) loạt bài viết như: 1) “Hiện tượng đồng hoá âm thanh (phần 1) – Tản mạn về tiếng Việt“, 2) “Hiện tượng đồng hoá âm thanh (phần 2) – Huyền Tráng, Huyền Tảng hay Huyền Trang?“, 3) “Hiện tượng đồng hoá âm thanh (phần 3) – tẩm liệm hay tấn/tẫn/tẩn liệm?“, 4) “Hiện tượng đồng hoá âm thanh (phần 4) – phong phanh hay phong thanh?” – có thể tham khảo trên trang: Tản mạn về tiếng Việt “hiện tượng đồng hoá âm thanh” (phần 4) hay Tản mạn về tiếng Việt “hiện tượng đồng hoá âm thanh” (phần 2); “Tiếng Việt thời LM de Rhodes – cách dùng con và cái (phần 14)” – xem bài viết trên mạng như: Tiếng Việt thời LM de Rhodes – cách dùng con và cái (phần 14).

14) PIERRE-GABRIEL VALLOT (1898) “Dictionnaire franco-tonkinois illustré”, NXB F.H. Schneider (Hà Nội) – có thể tham khảo tài liệu này trên mạng như: Dictionnaire franco-tonkinois illustré.
    PIERRE-GABRIEL VALLOT (1905). “Grammaire Annamite à l’Usage des Français de l’Annam et du Tonkin”, Imprimeur-Éditeur F. H. Schneider, HaNoi.


GHI CHÚ :
◊  Nguồn:  Tác giả gửi bài trực tiếp đến BAN TU THƯ vietnamhoc.net, thanhdiavietnamhoc.com – email: bantuthu1965@gmail.com.
◊  Các chữ in, chữ nghiêng, chú giải, liên kết dữ liệu, …, một ít “biên tập nhẹ“, trình bày bảng biểu và xử lí hình ảnh minh hoạ do BAN TU THƯ – vietnamhoc.net – thực hiện.

BAN TU THƯ
9/2022

MỜI XEM :
◊  Vài đóng góp của TỰ ĐIỂN BÉHAINE trong Văn hoá ngôn ngữ Việt Nam – Phần 1
◊  Vài đóng góp của TỰ ĐIỂN BÉHAINE trong Văn hoá ngôn ngữ Việt Nam – Phần 2.

TẢI VỀ XEM BẢN GỐC :
◊  Vài nhận xét sơ khởi về Tự điển Béhaine – Toàn bài.

(Visited 105 times, 1 visits today)