Vai trò của GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG trong việc góp đảm bảo CÔNG BẰNG XÃ HỘI ở Việt Nam hiện nay

1. Vài nét về một số khái niệm

     Khái niệm “Giá trị” (value) được sử dụng trong nhiều ngành khác nhau như: kinh tế học, tâm lí học, đạo đức học, xã hội học,… Do vậy, trong mỗi bộ môn khoa học, khái niệm này mang những hàm nghĩa khác nhau, tuỳ thuộc vào đối tượng và mục đích nghiên cứu. Trong bài viết này, chúng tôi tiếp cận khái niệm “giá trị văn hoá truyền thống” từ góc độ triết học.

     Trong lịch sử triết học, giá trị được bàn đến và được sử dụng khá sớm ở phương Tây và phương Đông cổ đại. Nhưng phải đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, giá trị học mới bắt đầu được hình thành như một khoa học riêng và giá trị trở thành khái niệm trung tâm của giá trị học. Ở Việt Nam, vấn đề giá trị đã được các nhà khoa học tập trung nghiên cứu từ thập niên 70 của thế kỉ XX đến nay. Trong đó, tiêu biểu là những quan điểm thể hiện trong các sách từ điển. “Từ điển Triết học” cho rằng, giá trị là “những định nghĩa về mặt xã hội của các khách thể trong thế giới chung quanh, nhằm nêu bật tác dụng tích cực hoặc tiêu cực của các khách thể ấy đối với con người và xã hội” 1. Theo đó, có thể hiểu, giá trị là những thuộc tính có ý nghĩa của các sự vật để phục vụ lợi ích của con người.

    Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn khi nghiên cứu về giá trị đã khẳng định: “nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới” 2.

     Chúng tôi cũng đồng ý với nhận xét của Giáo sư Vũ Khiêu: “Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta quan niệm giá trị là những thành tựu của con người góp vào sự phát triển của lịch sử xã hội, phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của con người. Giá trị xuất hiện từ mối quan hệ xã hội giữa chủ thể và đối tượng, nghĩa là từ thực tiễn và chiến đấu của con người xã hội. Giá trị vì thế được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm nghiệm qua thực tiễn” 3. Bởi, giá trị cũng như tính cách dân tộc và tâm lí dân tộc là sản phẩm của quá trình tư duy và sáng tạo. Những gì không liên quan đến con người và đời sống xã hội thì cũng không thể tồn tại trong phạm trù giá trị.

___________
1. Từ điển Triết học, bản dịch ra tiếng Việt có sửa chữa bổ sung của NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va và NXB Sự Thật, Hà Nội, 1986, tr. 206.

2. Nguyễn Trọng Chuẩn, Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển, Triết học, 1998, tr. 16.

3. Trần Văn Giàu (Chủ biên), Về giá trị văn hoá tinh thần Việt Nam, NXB Thông tin lí luận, Hà Nội, 1983, tr. 26.

     Khái niệm “Văn hoá” (culture) xuất hiện từ rất sớm trong ngôn ngữ nhân loại (xuất phát từ gốc chữ Latin “Cultura” – có nghĩa là trồng trọt, canh tác). Qua các thời kì lịch sử, khái niệm văn hoá được bổ sung thêm những nội dung mới. Heghel (1770-1831), đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức, quan niệm văn hoá, theo nghĩa rộng, là sự hình thành tồn tại người; mặt khác, giải thích văn hoá như là yếu tố nội tại của các tuyệt đối có giá trị vô tận. Hơn nữa, đối với ông, văn hoá trong sự xác định tuyệt đối của nó là sự giải phóng và hoạt động giải phóng cao nhất của cái tuyệt đối để đạt đến cái hình ảnh chung của tinh thần, của thực thể đạo đức. Có thể nói, Heghel đã xem xét sự phát triển của văn hoá như là mục đích có xu hướng của lí tính 1. Karl Marx (1818-1883) trong toàn bộ các tác phẩm kinh điển đồ sộ của mình, không để lại một tác phẩm nào với tư cách là sự trình bày hệ thống các quan điểm của mình về văn hoá. Văn hoá không được Karl Marx đề cập như một lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, độc lập. Nhưng xuất phát từ quan niệm về bản chất của con người và về phương thức xác định bản chất của sự “tồn tại người” của triết học Marx, chúng ta có thể đi tới một kết luận rằng văn hoá là phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản chất người gắn liền với các hoạt động sống của con người.

     Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) có nêu ra một định nghĩa về văn hoá (mà phải đến năm 1982, tại Mexico, UNESCO cũng có cách hiểu gần giống như vậy): “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” 2.

     Chúng tôi dựa trên các định nghĩa đã nêu, để xác định một khái niệm văn hoá cho riêng mình nhằm thuận tiện cho việc thu thập và phân tích dữ liệu khi nghiên cứu: “Văn hoá là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần nói chung, do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay) và nhằm phục vụ cho sự phát triển của con người. Các giá trị này được cộng đồng chấp thuận, vận dụng trong đời sống xã hội và được truyền lại cho các thế hệ sau. Văn hoá thể hiện trình độ phát triển và những đặc trưng riêng có của từng dân tộc trong từng thời kì lịch sử nhất định”.

____________
1. G.V.Ph.Hêghen, Toàn tập, NXB Kinh tế – Xã hội, Mátxcơva, tập VII, 1934, tr. 215.

2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 431.

     Truyền thống (traditional) là khái niệm được dùng khá phổ biến trong khoa học xã hội và đời sống với nhiều ý nghĩa khác nhau. Ở phương Tây, từ “truyền thống” (tradition) bắt nguồn từ chữ Latin “traditio” có nghĩa là “giao”, “chuyển giao”. Ở Việt Nam, “truyền thống” được phổ biến trong sách báo khoa học và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Người ta thường quan niệm “truyền thống” như một thói quen được lặp đi lặp lại nhiều lần và được truyền qua nhiều thế hệ. Trong Hán – Việt từ điển, cố Giáo sư Đào Duy Anh (1904-1988) định nghĩa: “Truyền thống: đời nọ truyền xuống đời kia” 1, “Truyền thống: thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác” 2. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: truyền thống là “quá trình chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác những yếu tố xã hội và văn hoá, những tư tưởng, chuẩn mực xã hội, phong tục, tập quán, lễ nghi,… và được duy trì trong các tầng lớp xã hội và giai cấp trong một thời gian dài” 3. Dưới góc độ sử học, cố Giáo sư Trần Quốc Vượng (1934-2005) cho rằng: “truyền thống là một hệ thống các tính cách, các thế ứng xử của một cộng đồng người được hình thành trong lịch sử, trong một môi trường tự nhiên và nhân văn nhất định” 4. Giáo sư Vũ Khiêu quan niệm, truyền thống là “những thói quen lâu đời, đã được hình thành trong nếp sống, nếp suy nghĩ và hành động của một dân tộc, một gia đình, một dòng họ, một làng xã, một tập đoàn lịch sử” 5.

     Như vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu về truyền thống đều cho rằng, “Truyền thống” là những yếu tố xã hội, như tư tưởng, tình cảm, đạo đức, văn hoá của một cộng đồng người, được hình thành trong điều kiện lịch sử nhất định và được lưu truyền qua nhiều thế hệ.

     Khái niệm “Giá trị văn hoá truyền thống”, theo cố Giáo sư Trần Văn Giàu (1911-2010) thì: “Giá trị truyền thống được hiểu là những cái tốt, bởi vì những cái tốt mới được gọi là giá trị. Thậm chí không phải bất cứ cái gì tốt đều được gọi là giá trị; mà phải là cái tốt cơ bản, phổ biến, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức, cho sự hướng dẫn nhận định, đánh giá và dẫn dắt hành động của một dân tộc thì mới mang đầy đủ ý nghĩa của khái niệm “giá trị truyền thống”. Giáo sư Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Truyền thống văn hoá là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và được cố định hoá dưới dạng những phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…” 6. Một khái niệm khác: “Nền văn hoá được truyền lại được gọi là truyền thống văn hoá. Như vậy, nó phản ánh được những thành tựu con người tích tập được trong quá trình tìm hiểu, thực hiện và truyền bá ý nghĩa sâu lắng nhất của cuộc sống. Đó chính là truyền thống theo nghĩa hài hoà của nó như là một hiện thân của trí tuệ” 7. Khi nói đến giá trị văn hoá truyền thống tức là chỉ nói đến những truyền thống tốt, có ích, mang ý nghĩa tích cực cho con người, xã hội đã được thực tiễn đánh giá và thẩm định qua thời gian. Cố Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét: “Truyền thống thì có cái tốt, cái xấu nhưng khi chúng ta nói “giá trị truyền thống” thì ở đây chỉ có cái tốt mà thôi, bởi vì chỉ có những cái gì tốt mới được gọi là giá trị; thậm chí phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức luân lí, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và hướng dẫn sự hành động, thì mới được mang danh là giá trị truyền thống” 8.

     Khi bàn về nội dung cơ bản của giá trị văn hoá truyền thống, trong “Việt Nam văn hoá sử cương” cố Giáo sư Đào Duy Anh từng nói đến 7 giá trị có thể xem là bản sắc văn hoá Việt: “Người Việt thông minh, giàu trí nghệ thuật, trực giác, ham học, thích văn chương, giỏi chịu đựng, hi sinh vì đại nghĩa, dung hoà, trọng lễ giáo và chuộng hoà bình” 9.

     Cố Giáo sư Trần Văn Giàu trong cuốn “Giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam” cũng nêu lên 7 giá trị mà ông cho là đặc thù của văn hoá Việt: 1) yêu nước; 2) cần cù; 3) anh hùng; 4) sáng tạo; 5) lạc quan; 6) thương người; 7) vì nghĩa 10.

     Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII của Đảng đã đúc kết ý kiến về các giá trị truyền thống cơ bản của người Việt Nam để đưa ra một định nghĩa về bản sắc dân tộc như sau: “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lí, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống” 11.

     Phát biểu kết luận Hội nghị Trung ương 9 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định: “Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn; lòng tự tôn, tự cường dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết hài hoà giữa cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình, đạo lí; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; là đức hi sinh cao thượng, tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; là sự ứng xử văn minh, lịch sự, tính giản dị và trong sạch trong lối sống” 12.

___________
1. Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, NXB TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh, 1994, tr. 505.

2. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994, tr.1017.

3. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 4, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005, tr. 630.

4. Trần Quốc Vượng, Truyền thống dân tộc, Cộng sản, số 2, 1981, tr. 28.

5. Vũ Khiêu, Bàn về văn hoá Việt Nam, tập 3, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 536.

6. Trần Ngọc Thêm, Tìm hiểu bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 26.

7. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hoá, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 19.

8. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 93.

9. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, NXB Tổng hợp Đồng Tháp, 1998, tr. 24.

10. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1980, tr. 266.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 56.

12. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, Nguồn: laodong.com.vn/…/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-tro…

2. Vai trò của giá trị văn hoá truyền thống trong việc đảm bảo công bằng xã hội ở Việt Nam

     Giá trị văn hoá truyền thống cũng như bản sắc văn hoá hình thành và định hình trong trường kì lịch sử, là yếu tố khá bền vững. Tuy nhiên, các giá trị đó không phải là bất biến, mà luôn biến đổi theo sự biến đổi của xã hội. Do vậy, cần phải nhìn các giá trị văn hoá trong động thái. Với quan điểm xuất phát: “Dùng quá khứ phục vụ hiện tại” (Piter Nolan) 1. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế, thì những giá trị hàng đầu, tiêu biểu của dân tộc, như yêu nước; tự tôn, tự cường; đoàn kết; nhân ái; cần cù, thông minh; hiếu học; lạc quan, v.v. cần được kế thừa, vận dụng và phát huy. Đây là những giá trị không bao giờ cũ.

     Trước hết có thể thấy giá trị văn hoá truyền thống với tư cách là sức mạnh mềm – sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của một dân tộc, đóng vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của cả dân tộc nói chung và của nền kinh tế nói riêng. Giá trị văn hoá truyền thống “vừa là mục tiêu, vừa là động lực” của kinh tế và ngược lại, kinh tế chính là điều kiện “môi trường sống” cho sự tồn tại và phát triển của văn hoá. Tuy nhiên, mục tiêu kinh tế không chỉ thuần tuý là phát triển kinh tế mà đồng thời phải phát triển xã hội, phát triển con người: “coi con người là chủ thể chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển” 2, chứ không phải vì kinh tế đơn thuần. Đây chính là bản chất xã hội chủ nghĩa của sự phát triển.

     Trên thực tế, những thành tựu của đổi mới và phát triển kinh tế đem lại trong gần 3 thập kỉ vừa qua đã cho thấy sức mạnh mềm – sức mạnh nội sinh, trong đó tinh thần lạc quan cách mạng của con người và dân tộc Việt Nam đã trở thành sức mạnh, được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo số liệu thống kê, nếu thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tại thời điểm năm 1988 mới đạt 86 USD, là một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất thế giới thì đến năm 2012 đã đạt gần 1.600 USD và năm 2013 khoảng 1.960 USD. Đây là tín hiệu khả quan để Việt Nam có thể sớm đạt được mục tiêu 2.000 USD/người do Đại hội XI đề ra cho năm 2015 3. Chỉ số HDI của Việt Nam cũng liên tục cao lên qua các năm, nếu năm 1995 là 0,559 thì năm 2012 là 0,617, đứng thứ 127 trên tổng số 187 nước và vùng lãnh thổ. Tính từ năm 1980 – 2012, tuổi thọ dân số tăng thêm 19,7 năm (từ 55,7 – 75,4 tuổi). Năm 2013, Việt Nam được quốc tế đánh giá là một trong số hơn 40 nước đang phát triển đạt được những tiến bộ hơn cả mong đợi về phát triển con người trong những thập kỉ gần đây 4. Việt Nam cũng là một trong những nước đã đạt được thành tích nổi bật trong xoá đói giảm nghèo. Tỉ lệ hộ nghèo từ 37,4% năm 1998 giảm xuống còn 7,6% năm 2013…

     Tuy nhiên, do động lực vận động của kinh tế thị trường là lợi nhuận (dù là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa), trong khi tạo ra những điều kiện tối ưu cho sự phát triển vẫn thể hiện những tác động tiêu cực nhất định tới tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dưới tác động của những “quy luật thép”, như: quy luật cung – cầu, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, đặc biệt là quy luật cạnh tranh,… đã dẫn đến một thực trạng là phát triển văn hoá chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế: “Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Xoá đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo còn khá lớn và ngày càng doãng ra” 5.

__________
1. Xem Nolan, Piter, Trung Quốc trước ngã ba đường, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 100.

3. Nguồn: baodientu.chinhphu.vn.

4. Nguồn: www.vn.undp.org

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.168.

     Nếu so sánh thì chênh lệch giữa vùng có tỉ lệ hộ nghèo ở mức cao nhất (miền núi Tây Bắc 25,86%) với vùng có tỉ lệ hộ nghèo ở mức thấp nhất (Đông Nam Bộ 0,95%) là 27,2 lần; giữa tỉnh có tỉ lệ hộ nghèo ở mức cao nhất (Điện Biên 35,22%) và tỉnh có tỉ lệ hộ nghèo ở mức thấp nhất (Đồng Nai 0,66%) là 53,36 lần 1. Trong giai đoạn 1995 – 2012, hệ số chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa 20% nhóm thu nhập cao nhất với 20% nhóm thu nhập thấp nhất ở Việt Nam tăng lên 2,35 lần (năm 1995 là 7 lần thì năm 2012 tăng lên 9,35 lần) 2. Chênh lệch thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng chia theo thành thị – nông thôn năm 2002 là 2,26 lần; năm 2012 là 1,89 lần. Chênh lệch vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất là Đông Nam Bộ với vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất là vùng Tây Bắc năm 2002 là 2,3 lần; năm 2012 là 3,02 lần 3. Hệ số Gini (Hệ số dùng để biểu thị độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập) ở Việt Nam cũng thể hiện sự bất bình đẳng ở mức nguy hiểm, năm 1994 là 0,350; năm 2012 đã tăng lên 0,4244.

     Trong khi đó, theo Tập đoàn Knight Frank (tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực tư vấn bất động sản, có trụ sở chính tại London (Anh), Việt Nam có khoảng 110 người siêu giàu với số tài sản trên 30 triệu USD vào năm 2013, tăng thêm 34 người so với 10 năm trước (năm 2003). Tổng tài sản của 100 người đứng đầu danh sách đạt gần 71.000 tỉ đồng (tương đương gần 3,4 tỉ USD) 5. Như vậy, cứ khoảng 1 triệu người Việt Nam thì có một người siêu giàu. Tỉ lệ người siêu giàu Việt Nam tăng là dấu hiệu tốt cho nền kinh tế. Song tỉ lệ nghèo và quy mô số người nghèo ở Việt Nam còn lớn, sẽ làm gia tăng nguy cơ bất bình đẳng. Theo số liệu thống kê của nhà nước về tỉ lệ người nghèo, vùng đồng bằng sông Hồng có khoảng 1,23 triệu người, vùng trung du và miền núi phía Bắc có 2,76 triệu người, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung có 3,21 triệu người, vùng Tây Nguyên có khoảng trên 1 triệu người, Đông Nam Bộ có gần 213.000 người và vùng đồng bằng sông Cửu Long có trên 1,84 triệu người 6.

     Bất bình đẳng xã hội ở “đầu giàu” là do làm ăn chân chính, bằng tài năng, trí tuệ và công sức. Còn ở “đầu nghèo”, cũng có ý nghĩa tích cực nhất định đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, nó thúc đẩy tính năng động xã hội trong mỗi cá nhân, mỗi nhóm xã hội, kích thích họ tìm kiếm và khai thác các cơ hội để làm giàu chính đáng nhằm nâng cao mức sống. Đồng thời, nó cũng tạo ra sự ganh đua về kinh tế, sự vượt trội hoặc thấp kém về kinh tế ở từng cá nhân, gia đình và các nhóm xã hội, tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt nhằm sàng lọc, tuyển chọn những người có đủ năng lực và phẩm chất cần thiết để trở thành những thành viên của nhóm xã hội vượt trội về kinh tế – động lực cho sự phát triển nói chung. Nhiều hộ giàu đã tạo việc làm, hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo, giúp cho nền kinh tế phát triển với năng suất lao động cao, tăng phúc lợi xã hội cho người nghèo thông qua thuế thu nhập của chính họ. Nhưng, nếu bất bình đẳng xã hội ở “đầu nghèo” do lười làm, chi tiêu lãng phí, vung tay quá trán, đua đòi, do sinh đẻ không kế hoạch, ỷ lại vào sự trợ giúp trực tiếp của Nhà nước, của xã hội,… thậm chí sa vào các tệ nạn rượu chè, cờ bạc, nghiện hút; Còn “đầu giàu” là do làm ăn bất chính, như buôn gian, bán lận, làm hàng giả, hàng nhái, hàng chứa các độc tố,… đặc biệt giàu lên là do tham nhũng – một trong những căn bệnh được Đảng và Nhà nước Việt Nam chỉ đích danh là “quốc nạn”, là vấn đề “nóng” đòi hỏi Đảng, Nhà nước Việt Nam và toàn thể xã hội phải quan tâm, giải quyết. Bởi, sự làm giàu bất minh là nguyên nhân chính khiến sự bất bình đẳng xã hội ở Việt Nam ngày càng tăng, nguy cơ dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

     Theo Thanh tra Chính phủ, năm 2013, có 41 trường hợp người đứng đầu bị xử lí do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng, trong đó có 4 người bị xử lí hình sự, 33 người bị xử lí kỉ luật hành chính và 4 trường hợp khác đang được các cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lí. Các bộ, ngành, địa phương đã tiến hành hàng nghìn cuộc kiểm tra, qua đó phát hiện 210 vụ việc vi phạm, xử lí kỉ luật 134 người; kiến nghị thu hồi và bồi thường hơn 78,5 tỉ đồng, đã thu hồi được 37,3 tỉ đồng. Các bộ, ngành, địa phương cũng đã tiến hành hàng nghìn cuộc kiểm tra việc thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, qua đó xử lí 118 công chức, viên chức vi phạm, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các sai phạm. Trong năm 2013, lực lượng cảnh sát điều tra đã thụ lí 371 vụ án, 847 bị can phạm tội về tham nhũng, trong đó: khởi tố mới 233 vụ, 568 bị can (so với cùng kì năm trước tăng 11 vụ và 97 bị can); thiệt hại khoảng 9.260 tỉ đồng; 51.000 lượng vàng SJC và 155.000m2 đất; đã thu hồi nộp ngân sách nhà nước trên 900 tỉ đồng 7. Tuy nhiên, theo chúng tôi đây chỉ là những con số bề nổi nằm dưới tảng băng trôi mà thôi.

     Bởi vậy, hơn bao giờ hết, các giá trị văn hoá truyền thống cần được vận dụng, kế thừa và phát huy để làm “hài hoà hoá” các mối quan hệ xã hội và “lành mạnh hoá” môi trường xã hội. Song, để làm được điều đó, trước hết, phải nâng cao chủ nghĩa yêu nước lên một trình độ mới, nội dung mới để bảo vệ và phát triển dân tộc mình trước cuộc chiến tranh không tiếng súng về tư tưởng, về thông tin, về công nghệ, về kinh tế. Trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, cái nghĩa lớn nhất – đại nghĩa là cứu nước, cứu dân. Bởi lẽ, “dân là gốc nước”, do vậy “yêu nước” phải “thương dân”, “cứu nước” phải “cứu dân” đó là lẽ phải tự nhiên, là đại nghĩa. Do đó, nhìn nhận một cách sâu sắc thì đây là thời điểm phải thức dậy ý thức dân tộc. Dân tộc, yêu nước bây giờ là tiến lên giàu mạnh về kinh tế và giàu mạnh về văn hoá và bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Cố gắng học tập tốt, rèn luyện tốt, hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình đó là yêu nước. Tự giác thực hiện chính sách, pháp luật, tôn trọng kỉ cương, đó chính là yêu nước. Dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, vì nước quên thân, vì nhân dân phục vụ, chính là yêu nước. Lao động tích cực, hăng hái, làm giàu chính đáng, đó là yêu nước. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực là yêu nước. Cùng với đó, cần giáo dục phẩm giá, lòng tự trọng, cảm giác về sự xấu hổ, sự sỉ nhục khi mắc phải lỗi lầm, về những hành vi tội lỗi. Đồng thời, phải lên án căn bệnh lãnh cảm xã hội, coi giàu có, hưởng lạc là tất cả, chối bỏ trách nhiệm, nghĩa vụ với quốc gia, với xã hội. Để căn bệnh đó không lây lan đầu độc tinh thần giới trẻ, thậm chí trở thành độc tố phá huỷ xã hội từ bên trong. Như vậy, khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước hiện nay là tạo điều kiện để từng người, từng tập thể và cả cộng đồng đem hết tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng phát triển đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng văn minh”.

     Thứ hai, muốn rút ngắn được khoảng cách giữa “đầu giàu” và “đầu nghèo”, phải phát huy truyền thống cần cù, thông minh, tinh thần hiếu học và cầu tiến của dân tộc gắn với sáng tạo, kỉ luật và kĩ thuật. Quan niệm “học giả dĩ trị sinh vi tiên vụ” (người học trước hết phải lấy việc nuôi sống làm việc đầu tiên) của người trước phải được vận dụng, có thế việc học tập mới được lâu dài. Học không chỉ trong nhà trường, học trong nghề nghiệp mà còn học trong cuộc sống. Do đó, “xoá đói” kiến thức, “giảm nghèo” nhận thức sẽ là sự xoá đói giảm nghèo một cách căn cơ nhất cho sự phát triển bền vững và ổn định của xã hội. Việc giúp cho người nghèo tiếp cận các phương thức sản xuất mới, hiệu quả chính là cơ sở bền vững để thực hiện xoá đói giảm nghèo theo đúng nghĩa của nó. Nếu được trang bị những kiến thức hữu dụng, những kĩ năng thiết thực và thái độ nhận thức đúng đắn thì mỗi con người không chỉ có thể chủ động nắm bắt kịp thời những cơ hội tốt do cộng đồng đem lại mà còn có thể biết cách khai thác chính tiềm năng nội tại của mình để vươn lên. Về cách thức thì rõ ràng rằng, việc cho “xâu cá” chỉ là giải pháp tạm thời, ngắn hạn, vì khi ăn hết “xâu cá” người nghèo không còn gì để ăn nữa, bởi vậy, việc giúp cho người nghèo chiếc “cần câu” và dạy cho họ làm cách nào để “câu cá”, mới là phương cách hiệu quả hơn nhiều. Bên cạnh đó, cần giáo dục lòng tự tôn, tự cường dân tộc, giúp cho người nghèo gạt bỏ tư tưởng tự ti, mặc cảm và trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của cộng đồng, không muốn tự mình vươn lên để thoát nghèo. Phải làm cho người nghèo thấy được là chỉ có bằng ý chí, bằng nghị lực, cần cù, sáng tạo và quyết tâm của chính mình thì mới có thể đưa họ thoát nghèo. Nếu những hộ nghèo không tự vươn lên, không có quyết tâm thì dù cộng đồng, xã hội có giúp đỡ tận tình cũng không bao giờ họ thoát khỏi cảnh nghèo. Đây chính là vũ khí, là yếu tố nội sinh xoá đói giảm nghèo hữu hiệu nhất.

     Thứ ba, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, sự đùm bọc, chia sẻ với người nghèo, người thuộc nhóm “yếu thế” trong xã hội là truyền thống tốt đẹp đã ăn sâu bén rễ ngàn đời nay của người Việt Nam, cần được tuyên truyền một cách sâu rộng bằng hệ thống truyền thông đại chúng, hệ thống giáo dục và các phương tiện truyền thống cũng như hiện đại, để người dân cả nước nhiệt tình hưởng ứng. Song, khối đoàn kết, tình nhân ái của dân tộc chỉ thực sự có hiệu quả khi nó trở thành trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của chính mỗi người dân, trong đó vai trò nòng cốt, hạt nhân lãnh đạo là tổ chức Đảng và Nhà nước. Vì thế, Nhà nước cần xã hội hoá mạnh mẽ hơn nữa công tác xoá đói giảm nghèo. Các tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức quần chúng cần nhận thức rõ rằng, việc giúp đỡ người nghèo, người yếu thế trong xã hội không những là lương tâm, trách nhiệm mà còn là đạo lí của người Việt Nam. Các chính sách chủ trương phát triển phải hướng tới sự hài hoà trong xã hội, tránh không để khoảng cách giàu nghèo ngày càng nới rộng. Đồng thời, Nhà nước điều tiết có hiệu quả một phần đáng kể nguồn thu của những người có thu nhập cao nhằm tăng phúc lợi xã hội, góp phần hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Bởi, hệ thống an sinh xã hội vừa là công cụ đắc lực làm giảm thiểu sự bất bình đẳng xã hội, vừa là phương tiện chuyển tải những chính sách xã hội của Nhà nước và cộng đồng đến người dân, tiến tới thực hiện công bằng xã hội.

     Như vậy, để những giá trị văn hoá truyền thống có thể lột xác thành sức mạnh mới, thì vẫn phải thông qua chủ thể của nó là con người, nhất là con người có trọng trách điều tiết vĩ mô. Song, con người với các phẩm chất tích cực của truyền thống – tự nó, cũng không thể đương nhiên khiến xã hội phát triển công bằng và bền vững. Vấn đề là ở chỗ biết sử dụng, có phương thức sử dụng, biết kích thích các giá trị tích cực, ưu trội của con người và văn hoá.

__________
1. Số liệu tác giả tính dựa theo kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2013 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (Nguồn: baodientu.chinhphu.vn › … › Hoạt động Bộ ngành, 14-5-2014).

2. Tổng cục Thống kê, Kết quả số liệu tổng hợp về khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2012, NXB Thống kê, Hà Nội, tr. 207 – 208.

3. Tổng cục Thống kê, Kết quả số liệu tổng hợp về khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2012, sđd, tr. 201.

4. Tổng cục Thống kê, Kết quả số liệu tổng hợp về khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2012, sđd,, tr. 338.

5. Nguồn: nld.com.vn/…/viet-nam-co-khoang-110-nguoi-sieu-giau-

6. Nguồn: baophapluat.vn/…/phan-hoa-giau-ngheo-dang-tang-nhanh-o-viet-nam-1.

7. Nguồn: www.anninhthudo.vn/Thoi-su/41-lanh-dao-bi…ly-do…/520993.antd.

LÝ THỊ HUỆ 1

_________
1. Học viện Hành chính Quốc gia.

(Visited 54 times, 1 visits today)