ThS. TRẦN HÙNG MINH PHƯƠNG
(KHXH&NV, ĐHQG -HCM)
2.2. Việt Nam trong cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
Việt Nam với vị trí địa lý nằm ở điểm đầu của Vành đai trên biển, trung tâm tam giác giữa ba quốc gia Nhật Bản, Ấn Độ và Australia cũng như nằm ở tâm trong cấu trúc khu vực “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”. Vì vậy, Việt Nam trong quan hệ song phương, quan hệ với các cường quốc trong khu vực như Ấn Độ, Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc thì vị thế địa – chính trị của Việt Nam sẽ được nâng tầm lên. Vậy làm thế nào Việt Nam duy trì tốt mối quan hệ với Trung Quốc, và mở rộng mối quan hệ song phương với Mỹ, quan hệ đối tác với Ấn Độ chính là một thách thức thời đại quan trọng đối với Việt Nam (Andrew Chubb & Carlyle Thayer, 2018). Nền kinh tế Việt Nam ổn định, không ngừng phát triển (dự báo tăng 6.6% trong năm 2019, GDP trong quý 1/2019 tăng 6.8%) (Theo vietnamnews.vn, 2019). Phát triển và cải cách nền kinh tế nhằm tối đa hóa lợi ích cho người dân cũng là một thách thức và đòi hỏi liên tục đối với Việt Nam trong cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Chính quyền Mỹ Donald Trump khôi phục niềm tin cho các quốc gia Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, niềm tin vào Mỹ như một tác nhân bên ngoài không thể thiếu trong khu vực. Mỹ cần phải chứng minh rằng các chính sách cứng rắn không chỉ được thiết kế để dành cho Mỹ mà cũng có thể mang lại lợi ích cho Đông Nam Á, một trong những khu vực phát triển nhanh nhất thế giới về kinh tế và đây là khu vực có giá trị chiến lược quân sự, kinh tế quan trọng. Ở đó, Tổng thống Trump đánh giá Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á tích cực nhất bảo vệ lợi ích của mình ở Biển Đông. Việt Nam về cơ bản đã đưa vào chính sách quốc gia các khía cạnh hiệu lực Chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Bằng cách áp dụng các biện pháp chiến lược và kinh tế khu vực khó khăn hơn với Việt Nam (Joshua Kurlantzick, 2018), chính quyền Donald Trump có thể chứng minh với Đông Nam Á rằng cách tiếp cận khó khăn nằm trong lợi ích của họ. Chính điều này thuyết phục Mỹ để nắm lấy khu vực “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” (Free and Open Indo-Pacific Strategy).
Xét bề ngoài, chiến lược FOIP của Mỹ theo định nghĩa của Alex N. Wong phần lớn tương thích với lợi ích quốc gia của Việt Nam. Là một bên tham gia tranh chấp ở Biển Đông và dễ bị tổn thương trước quyền lực ngày càng lớn và sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ một trật tự khu vực dựa trên quy tắc và không tồn tại sự ép buộc. Tương tự như vậy, tự do hàng hải và hàng không cũng là những gì Việt Nam tìm cách thúc đẩy như một lá cờ tập hợp lực lượng để huy động sự ủng hộ của quốc tế đối với cuộc đấu tranh của mình chống lại Trung Quốc ở Biển Đông (Le Hong Hiep, 2018, p.4).
Mối quan hệ quốc phòng giữa Mỹ – Việt Nam ngày càng thân thiết hơn từ thời của chính quyền Mỹ Obama. Mặc dù hai bên vẫn còn những trở ngại nhất định, quan hệ an ninh giữa Mỹ và Việt Nam đã được nâng cấp. Hai nước hiện có cuộc đối thoại thường niên về quốc phòng, và các tàu của Mỹ cũng thường xuyên ghé cảng Cam Ranh, một trong những cảng chiến lược quan trọng nhất ở Đông Nam Á. Năm 2013, chính quyền Obama đã ký kết quan hệ hợp tác với Việt Nam. Quan hệ này đã giải quyết một loạt các vấn đề tồn tại giữa hai bên trong nhiều năm qua (obamawhitehouse.archives.gov, 2013).
Việt Nam có được vị thế quan trọng và hết sức đặc thù trong quan hệ cả với Mỹ và Trung Quốc khiến các nước trong khu vực coi trọng vai trò và vị thế của Việt Nam. Trong quan hệ đa phương, cạnh tranh Mỹ – Trung tại khu vực Biển Đông nói riêng và Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nói chung khiến Việt Nam cũng như các quốc gia ASEAN chịu sức ép và tác động không nhỏ từ hai cường quốc này. Trong vòng xoáy cạnh tranh chiến lược không ngừng thay đổi của hai cường quốc này tại khu vực, Việt Nam không thể đứng ngoài và cả Mỹ lẫn Trung Quốc đều không muốn Việt Nam đứng bên ngoài sự cạnh tranh chiến lược của mình. Bên cạnh đó, việc thực thi chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên Biển Đông chính là một trong những nguyên nhân và tâm điểm dẫn đến xung đột, cạnh tranh lợi ích giữa Mỹ và Trung Quốc. Vì vậy, hơn bao giờ hết Việt Nam nhận thức đúng vị trí quốc gia trong quan hệ Mỹ – Trung ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nhằm mục đích đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc trong bối cảnh nếu Mỹ và Trung Quốc có thể có những thoả hiệp chính trị và thay đổi chiến lược tại khu vực này. Việt Nam đã xác định đúng vị trí của quốc gia trong bàn cờ chính trị khu vực và thế giới (Phạm Bình Minh, 2011, tr.54). Hiện nay, Việt Nam luôn tiếp tục củng cố và phát triển trong quan hệ cả với Trung Quốc và Mỹ, tận dụng vai trò trong quan hệ đối tác đối với hai cường quốc này, nhưng luôn đề phòng để tránh bị lôi kéo vào cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Vào tháng 11 năm 2015, khi Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sang thăm Việt Nam thì chiến lược “Sáng kiến Vành đai – Con đường” (BRI) mới nhắc đến Việt Nam tham gia vào BRI (Phạm Sỹ Thành, 2019, tr.271). Tuy nhiên, việc Việt Nam đối với BRI chủ yếu chỉ dựa vào sự cân nhắc về chiến lược, an ninh nhiều hơn nhu cầu về kinh tế (Phạm Sỹ Thành, 2019, tr.273). Bên cạnh đó, chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông vẫn luôn là vấn đề tranh chấp nhiều thập kỷ qua giữa Việt Nam và Trung Quốc, tác động không nhỏ đến BRI. Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền của quốc gia trên Biển Đông, đồng thời đã thúc đẩy hợp tác về biển với các quốc gia ASEAN với mục tiêu xây dựng cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương hòa bình, ổn định và phát triển. Cùng với sự ủng hộ của ASEAN, đồng thời Việt Nam tiếp tục tranh thủ tiếng nói của Mỹ trên các diễn đàn đa phương quốc tế nhằm giải quyết nhanh chóng, mềm dẻo, linh động và có hiệu quả các tranh chấp trên Biển Đông dựa trên luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Việt Nam là quốc gia ở khu vực Đông Nam Á nhưng Việt Nam cũng là một quốc gia nằm trong cấu trúc “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”. Từ năm 1998, nhận định được tầm quan trọng của khu vực này, Việt Nam đã tham gia vào APEC. Thực tiễn của Việt Nam tham dự APEC hơn 20 năm (1998 – 2018) đồng thời việc Việt Nam đã chủ trì nhiều lần Hội nghị APEC đã chứng minh rõ APEC có tác động quan trọng đến nền kinh tế Việt Nam và, ngược lại, Việt Nam cũng đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của APEC và khu vực. Với cương vị chủ tịch APEC, Việt Nam đã đưa ra nhiều ý tưởng, sáng kiến và đề xuất được các thành viên ủng hộ. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 13 (theo Lowy Institute Asia-Power Index) trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương (hanoitimes.vn, 2019). Theo chỉ số đánh giá này, thì Việt Nam được xếp hạng trong nhóm các cường quốc trung gian, có tổng điểm từ 18 trên 100, tăng 1,5 điểm so với năm ngoái nhờ cải thiện năng lực quân sự, ảnh hưởng ngoại giao, sức mạnh đa phương và chính sách đối ngoại.
Đối với các quốc gia thành viên ASEAN, Việt Nam đang nắm giữ vị trí địa-chính trị quan trọng trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Tuy nhiên, quan điểm của các nước trong khu vực Đông Nam Á rất đa dạng, không nhất quán. Trong khi Việt Nam, Singapore, Indonesia và Thái Lan ngày càng thể hiện rõ sự ủng hộ chiến lược mới của cấu trúc khu vực “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” thì những nước nằm trong tầm ảnh hưởng lớn của Trung Quốc như Philipines, Malaysia, Campuchia lại giữ im lặng một cách khó hiểu. Việt Nam với vai trò chủ động tích cực của mình, sẽ phối hợp với hành động có trách nhiệm của các nước lớn, trong việc phát huy tính độc lập tự chủ kết hợp với hợp tác trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế… Bên cạnh đó, Việt Nam không thể đứng ngoài “Sáng kiến Vành đai – Con đường”của Trung Quốc và “Sáng kiến Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” của Mỹ, xây dựng các bước đi quan trọng trong mối quan hệ quốc tế cả với Mỹ và Trung Quốc. Thông qua các hoạt động tích cực trong ASEAN, Việt Nam không chỉ thắt chặt quan hệ với các thành viên ASEAN, đóng góp cho ASEAN trong nhiều lĩnh vực hợp tác khu vực mà còn bình thường hoá, hội nhập và mở rộng quan hệ với các cường quốc trong khu vực và thế giới qua vai trò chủ tịch ASEAN (2010), trong tổ chức các hội nghị cấp cao ASEAN, nâng cao ảnh hưởng và uy tín Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Việt Nam đã là thành viên WTO (2006), Uỷ viên không thường trực HĐBA Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, Chủ tịch HĐBA vào tháng 7 năm 2008, tháng 10 năm 2009 và tiếp tục là Uỷ viên không thường trực HĐBA Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021.
Việt Nam là quốc gia ở khu vực “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” tổ chức thành công Hội nghị APEC, và gần đây là APEC 2017, đồng thời các chuyến công du của các nguyên thủ quốc gia đến thăm, hội nghị, hoà đàm cùng nhau tại Việt Nam đã tạo ra một thế đối ngoại quan trọng của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Việt Nam đón tiếp trọng thị các nguyên thủ quốc gia như Donald Trump, Tập Cận Bình, Kim Jong Un và các nguyên thủ khác, cũng như việc Mỹ, Bắc Triều Tiên đã chọn Việt Nam làm nơi hội đàm vào cuối tháng 2 năm 2019 vừa qua đã chứng minh chiến lược của họ ở khu vực đồng thời nêu bật được vị thế địa chính trị chiến lược quan trọng của Việt Nam đối với các cường quốc. Sau APEC 2017 tổ chức tại Việt Nam, vào tháng 7 năm 2018, Mỹ đã cam kết tham gia kinh tế thương mại sâu hơn vào cấu trúc khu vực “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”. (whitehouse.gov, 2018). Tự do thương mại chính là trung tâm kết nối của khu vực “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” (Robert A. Manning, 2018).
Theo báo cáo Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ gần đây nhất, “một cuộc cạnh tranh địa chính trị giữa các thể chế tự do và kìm hãm trật tự thế giới đang diễn ra ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”. Trong khi đó các quốc gia trong khu vực đều đồng ý rằng hiện nay sức mạnh bá chủ của Trung Quốc trong khu vực rất đáng kể, họ thúc đẩy sự hợp tác lên một bước khá xa. Không còn thời gian để lãng phí và đứng ngoài cuộc trong hợp tác và hành động. Các quốc gia trong khu vực “Ấn Độ – Thái Bình Dương” phải có các hành động mạnh mẽ hơn để tăng cường sự ổn định của khu vực, cam kết của họ đối với các quy định chung, chưa kể đến luật pháp quốc tế và tạo ra các thể chế mạnh mẽ hơn.
Để giảm thiểu các mối đe dọa, các nước của khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam, phải đối mặt với ba thách thức chính, bắt đầu với khoảng cách mở rộng giữa chính trị và kinh tế. Thiếu sự hội nhập về chính trị và sự thiếu vắng của khuôn khổ an ninh chung ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, các thỏa thuận thương mại tự do đang tăng nhanh, mới nhất là Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương của 11 nước (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership – CPTPP, tên gọi khác: TPP11 là một Hiệp định về nguyên tắc thương mại giữa Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam). Trong khi đó, Trung Quốc nổi lên như là đối tác thương mại hàng đầu của hầu hết các nền kinh tế khu vực. Nhưng sự bùng nổ thương mại không thể giảm thiểu sự rủi ro chính trị. Điều đó đòi hỏi một khuôn khổ các quy tắc và tiêu chuẩn pháp lý quốc tế cần chia sẻ và thực hiện bởi các quốc gia trong khu vực. Đặc biệt, tất cả các nước nên đồng ý nêu rõ hoặc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ hoặc hàng hải trên cơ sở luật pháp quốc tế và giải quyết mọi tranh chấp bằng các phương tiện hòa bình – không bao giờ bị ép buộc hoặc ép buộc quốc gia khác. Việc tranh chấp về lãnh thổ, khu vực thềm lục địa, tài nguyên thiên nhiên… đều phải được giải quyết trên nền tảng hoà bình, nhất là khu vực Biển Đông – nơi xác lập chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chính điều này đưa đến thách thức chính thứ ba với khu vực “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” trong đó có Việt Nam: thay đổi phát triển hàng hải. Trong bối cảnh dòng chảy thương mại hàng hải phát triển, các cường quốc khu vực đang cố gắng để tiếp cận, tranh giành ảnh hưởng và lợi thế tương đối. Ở đây, mối đe dọa lớn nhất nằm trong nỗ lực đơn phương của Trung Quốc nhằm thay đổi hiện trạng khu vực. Những gì Trung Quốc đạt được ở Biển Đông có ý nghĩa chiến lược xa hơn và dài hơn đáng kể so với việc sáp nhập Crimea của Liên bang Nga, vì nó gửi một thông điệp rằng chủ nghĩa đơn phương của Trung Quốc thách thức pháp luật quốc tế.
Vì thế, hiện nay Việt Nam đã và đang tập trung những nỗ lực quan hệ với Australia, Ấn Độ, Liên bang Nga, Hàn Quốc và Nhật Bản, cùng một số đối tác ngoài Mỹ trong cấu trúc khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Các quốc gia này đang tiến hành các hoạt động trong khái niệm “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Việt Nam chú trọng hơn các quan hệ dựa vào biển và hàng không, vận dụng lợi thế quan hệ với các quốc gia này trong quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ và Trung Quốc. Với Australia, Việt Nam đã ký kết hợp tác chiến lược mới vào tháng 3 năm 2018. Việt Nam và Ấn Độ đã tạo ra một quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, trong đó hai bên đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ hơn về an ninh hàng hải và thăm dò dầu khí trên Biển Đông. Ấn Độ đang hỗ trợ Việt Nam trong việc đào tạo phi công chiến đấu và cung cấp tên lửa đất đối không cho Việt Nam, các cuộc tập trận hải quân chung giữa hai quốc gia cũng thường xuyên hơn trong những năm gần đây (D. Peri, 2016; S. Miglani, 2017; (P. Parameswaran, 2018). Việt Nam cũng đã mở rộng quan hệ liên kết chiến lược với Nhật Bản trong năm 2018. Việc mở rộng quan hệ có thể thấy qua việc các đội tàu Nhật Bản thường xuyên tới Việt Nam, hỗ trợ an ninh hàng hải và hợp tác công nghiệp quốc phòng của Nhật Bản đối với Việt Nam ngày càng gia tăng.
3. Kết luận
Cấu trúc “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” là cấu trúc cần thiết để quản lý sự phát triển khu vực và đưa các quốc gia trong khu vực vào các khuôn khổ pháp lý được thiết lập trong một chiến lược phát triển ở thế kỷ XXI. Ngoài ra, cấu trúc khu vực “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”, một trong những khu vực năng động, là khung khái niệm hữu ích nhất để giải quyết các vấn đề giữa các cường quốc lớn. Mục đích của cấu trúc này là xây dựng sự thịnh vượng chung cho các nước tham gia. Nếu không, khu vực này sẽ trở thành nơi để các cường quốc thể hiện sức mạnh quân sự và quyền lực bá chủ của mình. Cấu trúc khu vực “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” được xây dựng và phác họa rõ ràng, nhưng chưa khẳng định được quốc gia nào nắm việc phân bổ nguồn lực kinh tế, chính trị, quân sự vào khu vực một cách cụ thể. Hiện nay, cấu trúc khu vực này mới chỉ nêu lên các giá trị và một số giải pháp về quân sự, nhưng nội hàm về phát triển kinh tế khu vực thì chưa có gì đáng kể.
Tương lai của cấu trúc này diễn ra chưa rõ ràng. “Sáng kiến Vành đai và Con đường” của Trung Quốc và “Chính sách hướng Đông” của Ấn Độ có thể đóng góp đáng kể cho sự hội nhập kinh tế của khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Đồng thời, sự thịnh vượng kinh tế lớn hơn trong khu vực có thể được phát triển thông qua lĩnh vực hàng hải. Các tuyến đường hàng hải cho đến nay, phần lớn là từ phía tây Ấn Độ Dương đến vịnh Ba Tư và kênh Mozambique, có thể hoạt động tích cực, hữu hiệu hơn. Việc định hình và mở rộng cấu trúc “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” phải đi kèm với chính sách bổ sung cho khu vực Đông Nam Á và đòi hỏi các quốc gia khác trong khu vực, chứ không chỉ là “bộ tứ giác an ninh” Mỹ – Nhật – Ấn – Australia, cùng phải hợp tác và hành động một cách hiệu quả trong xây dựng cấu trúc “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương”.
Về mặt kinh tế và chiến lược, trung tâm sức mạnh toàn cầu của thế giới đang chuyển dần sang Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Nếu các quốc gia trong khu vực không hành động ngay từ bây giờ để củng cố một trật tự mở, dựa trên quy tắc, tình hình an ninh sẽ tiếp tục xấu đi, với những hậu quả ảnh hưởng đến toàn thế giới. Trong cấu trúc khu vực “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” với những biến động, thuận lợi, khó khăn và thách thức đan xen nhau, “không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn” như nhận định của Huân tước Palmerston, Ngoại trưởng Anh ở thế kỷ XIX; lợi ích quốc gia chính là sự tự bảo vệ, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quân sự và kinh tế phát triển (Jack C. Plano and Roy Olton, 1988, tr.10). Việt Nam đã luôn xử lý khéo léo, mềm mỏng nhưng cương quyết, linh hoạt đường lối ngoại giao, nhất là trong quan hệ quốc tế với các nước lớn, những nước có lợi ích khác biệt hoàn toàn, bảo vệ vững chắc chủ quyền, độc lập dân tộc như Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII (2016) đã đề ra: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế… nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr.34-35)./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andrew Chubb & Carlyle Thayer, “Vietnam in the Indo-Pacific: Challenges and opportunities in a new regional landscape”,
<https://perthusasia.edu.au/getattachment/80b611bb-a703-459abcb7-93cd56a8c179/PU-64-Viet-Booklet-WEB.pdf.aspx?lang=en-AU>. Truy cập 20/5/2019.
2. Brahma Chellaney (12/5/2018). “A new order for the Indo-Pacific region”,
<https://www.japantimes.co.jp/opinion/2018/03/12/commentary/world-commentary/neworder-indo-pacific-region/#.Ww41Z1OFPVo>. Truy cập 26/5/2019.
3. Báo Tuổi trẻ (2018). “ASEAN – Ấn Độ: chia sẻ giá trị, cùng chung vận mệnh”.
<https://tuoitre.vn/asean-an-do-chia-se-gia-tri-cung-chung-van-menh20180126115636068.htm,
ngày 26/1/2018>. Truy cập 23/5/2019.
4. C. Fred Bergstern, Bates Gill, Nicholas R. Lardy, and Derek Mitchell. 2006. China: The Balance Sheet. What the World Needs to Know about the Emerging Superpower, New York: Public Affairs.
5. David Scott. “The Indo-Pacific in US Strategy: Responding to Power Shifts”. Rising Powers Quarterly. Volume 3, Issue 2, 2018, p.19-43.
6. Dennis Rumley, Timothy Doyle & Sanjay Chaturvedi (2012. “Securing’ the Indian Ocean? Competing Regional Security Constructions”.
<https://www.adelaide.edu.au/indo-pacific governance/research/policy/Timothy_Doyle.pdf>. Truy cập 23/5/2019.
7. Dinaker Peri. “India to Train Vietnam’s Sukhoi Fighter Pilots”. Hindu, December 6, 2016.
<http://thehindu.com/news/national/India-to-trainVietnam%E2%80%99s-Sukhoi-fighterpilots/article16765719.ece>. Truy cập 25/5/2019.
8. D.V.Mosiakov (2016). Chính sách của Trung Quốc ở Đông Nam Á từ quá khứ đến hiện đại. Hà Nội: Chính trị Quốc gia – Sự Thật.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
10. Ernest Z. Bower. “Hu Jintao’s Visit and the South China Sea: Whose/ Hu’s Core Interests?” (January 11, 2011), retrieved on January 13, 2011, from the Center for Strategic and International Studies website <www.csis.org/publication/hu-jinatos-visit-and-the-south-chinasea-whosehus-core-interests>. Truy cập 15/5/2019.
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học lần thứ IV với chủ đề
Những vấn đề giảng dạy tiếng Việt và nghiên cứu Việt Nam trong thế giới ngày nay.
NXB: Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – 2019 (từ trang 1322 đến trang 1336)
Trích dẫn: Khoa Việt Nam học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)